Từ sau Cách mạng tháng Tám 1945 đến năm 1948, đồng chí giữ các chức vụ Bí thư Thành ủy Hải Phòng, Bí thư Thành ủy Hà Nội, Phó bí thư Khu ủy đặc biệt Hà Nội, Xứ ủy viên Bắc kỳ, Bí thư liên Tỉnh ủy Hà Nội - Hà Đông, Ủy viên Thường vụ Liên khu ủy Liên khu 3 phụ trách công tác tuyên huấn. Năm 1949, đồng chí là Phó trưởng Ban Tuyên huấn Trung ương Đảng. Từ năm 1950, đồng chí được Đảng điều động vào quân đội, giữ nhiều trọng trách: Cục trưởng Cục Tuyên huấn - Tổng cục Chính trị Quân đội Nhân dân Việt Nam, Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội Nhân dân Việt Nam. Trực tiếp tham gia chỉ huy các chiến dịch quan trọng trong cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Năm 1958, đồng chí được phong quân hàm Thiếu tướng, năm 1974 được thăng quân hàm Trung tướng Quân đội Nhân dân Việt Nam.
Với năng lực, uy tín và cống hiến của đồng chí đối với cách mạng Việt Nam, năm 1960 đồng chí được bầu là Ủy viên dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Ủy viên Quân ủy Trung ương. Năm 1972, trở thành Ủy viên chính thức của Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Sau đó, đồng chí đã được tiếp tục bầu là Ủy viên Trung ương Đảng các khóa IV, V, VI và giữ trọng trách Bí thư Trung ương Đảng các khóa IV, V. Đồng chí đã đảm trách nhiều cương vị quan trọng của Đảng và Nhà nước, như Phó Bí thư Thường trực Thành ủy Hà Nội, Trưởng Ban Khoa giáo Trung ương; đến năm 1987, đồng chí được bầu là Chủ tịch Quốc hội, Phó Chủ tịch Hội đồng Nhà nước nước CHXHCN Việt Nam (1987-1992). Từ năm 1994 cho đến lúc đi vào cõi vĩnh hằng (1999), đồng chí đảm trách nhiệm vụ Chủ tịch Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam.
Cuộc đời và sự nghiệp của đồng chí Lê Quang Đạo gắn liền với những biến đổi to lớn và sâu sắc của đất nước ta trong hơn 60 năm cuối của thế kỷ 20. Trải qua nhiều trọng trách, dù ở bất kỳ cương vị nào, trong điều kiện hoàn cảnh nào, đồng chí luôn tận tâm, tận lực với công việc, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao. Với trách nhiệm là Chủ tịch Quốc hội, đồng chí đã góp phần tích cực đưa đường lối đổi mới của Đảng vào việc đổi mới hoạt động của Quốc hội, nhất là việc đẩy mạnh công tác lập hiến và lập pháp để thể chế hóa các nghị quyết của Đảng, đáp ứng yêu cầu quản lý đất nước bằng pháp luật. Đồng chí cũng đã có công lao không nhỏ cùng với Quốc hội phấn đấu thông qua Hiến pháp sửa đổi 1992 đáp ứng đòi hỏi của cách mạng trong giai đoạn mới và nhiều bộ luật, luật và pháp lệnh. Ngoài ra, đồng chí đã góp phần tích cực trong việc Quốc hội quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước, mở đầu thời kỳ đổi mới còn nhiều khó khăn, phức tạp.
Đối với công tác dân vận và Mặt trận, đồng chí là người có nhiều kinh nghiệm và năng lực hoạt động cũng như uy tín lãnh đạo. Đồng chí đã giúp Trung ương xây dựng Chỉ thị “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác MTTQ Việt Nam” (1983); chủ trì giúp Trung ương xây dựng Nghị quyết của Bộ Chính trị về “Đại đoàn kết dân tộc và tăng cường Mặt trận Dân tộc thống nhất trong tình hình mới” (1993). Một cố gắng lớn lao của đồng chí trước lúc ra đi là đã dốc sức cùng tập thể xây dựng Luật MTTQ Việt Nam, đã được Quốc hội thông qua. Ở đó đã khẳng định được vai trò của Mặt trận trong sự nghiệp đổi mới đất nước; tăng cường mối liên hệ mật thiết giữa nhân dân với Đảng và Nhà nước; phát huy tinh thần yêu nước, truyền thống đại đoàn kết toàn dân-một nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Với những đóng góp to lớn đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam, đồng chí Lê Quang Đạo đã được Đảng, Nhà nước tặng thưởng Huân chương Hồ Chí Minh, Huy hiệu 50 năm tuổi Đảng và nhiều Huân chương, Huy chương cao quý khác.