Trang chủ

CÁC TƯỚNG LĨNH CỦA HAI BÀ TRƯNG Ở VÙNG TIÊU TƯƠNG
15:53 | 03/01/2019

Sông Tiêu Tương là dòng sông lịch sử - văn hóa trên mảnh đất Bắc Ninh. Dọc đôi bờ sông, các nhà khảo cổ đã phát hiện nhiều di tích từ xa xưa của các thành lũy, đình chùa, mộ tháp. Vùng đất này cũng đã trải qua nhiều cuộc chiến tranh thời kỳ hàng ngàn năm được ghi vào sách sử, cũng như các chuyện dã sử trong việc dựng nước giữ nước chống giặc ngoại xâm của dân tộc Việt Nam.

Trên mảnh đất Bắc Ninh - Kinh Bắc, mảnh đất vùng Tiêu Tương đã chứng kiến nhiều tên tuổi các vị tiên hiền, dũng tướng được thờ cúng làm thành hoàng làng ở các đền, đình, miếu, nghè. Nơi ghi công cũng là nơi tưởng vọng đèn hương đêm ngày thờ những vị anh hùng có công với dân với nước. Trong đó có các vị tướng thời Hai Bà Trưng trên hệ thống sông Tiêu Tương. Tại những nơi thờ cúng này, đã gợi cho chúng ta thấy cảnh đất nước trong những năm đầu công nguyên. Chúng ta có quyền hãnh diện tôn vinh các vị anh hùng thời kỳ này đã có công cùng Hai Bà Trưng chống giặc ngoại xâm.

Cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng từ năm 39 đến năm 43 sau công nguyên là cuộc đấu tranh giành chủ quyền về tay dân tộc, dưới sự đô hộ đè nén bóc lột của nhà Đông Hán (Trung Quốc). Với khẩu hiệu “Đền nợ nước - trả thù nhà”, Hai Bà Trưng ở đất Mê Linh đã vùng đứng lên, được quân dân quận Giao Chỉ ủng hộ đánh lại bọn quan lại nhà Đông Hán. Chỉ trong vòng vài tháng, đội quân Hai Bà đã thu phục được 65 thành trì, giải phóng toàn bộ đất nước, giành chủ quyền về tay dân tộc.

Với chiến công vang dội kể trên, Hai Bà đã được toàn dân ủng hộ, trong đó quan trọng có nhiều vị anh hùng, tướng nữ, tướng nam, các nơi đã đồng lòng kéo quân về tụ hiệp cùng làm nên chiến thắng.

Phải kể đến trong vùng sông Tiêu Tương có 9 vị anh hùng (6 tướng nam và 3 tướng nữ). Ở đầu nguồn sông Tiêu Tương: Thôn Cẩm Thụ thờ tướng nữ: Diệu Tiên Thần Nữ (mẹ) và tướng nam: Quảng Khánh Đại Vương (con đẻ).

Hai vị tướng hiện được thờ tại đền thôn Xuân Thụ và đình thôn Xuân Thụ (thờ thành hoàng làng) thôn Xuân Thụ nay thuộc khu phố Xuân Thụ,  phường Đông Ngàn, Từ Sơn.

Ở thôn Cẩm Giang thờ: Pháp Hải Đại Vương (con nuôi bà Diệu Tiên). Pháp Hải Đại Vương thờ ở đình Cẩm Giang (thành hoàng làng). Đình Cẩm Giang còn thờ vọng bà Diêu Tiên và Quảng Khánh Đại Vương - Cẩm Giang (nay là khu phố Cẩm Giang - phường Đồng Nguyên.

Ở thôn Hồi Quan, xã Tương Giang, thị xã Từ Sơn, thờ: Tam Quang Đại Vương.

Ở thôn Lũng Sơn, thị trấn Lim, huyện Tiên Du, thờ: Phương Dung công chúa được thờ ở Đình Lũng Sơn (thành hoàng làng) và thờ ở đình thôn Lũng Giang, thị trấn Lim.

Liễu Giáp Đại Vương được thờ ở đền Lũng Sơn, thị trấn Lim.

Ở khu vực sông Tiêu Tương (nhánh phía Nam). Thôn Hoài Trung, thôn Hoài Thượng, xã Liên Bão, huyện Tuên Du thờ: Đệ Nhất Đông Quân, Đệ Nhị Đông Quân, Đệ Tam Đông Quan. Ba tướng trên (là anh em ruột). Nay 3 vị đều được thờ (thành hoàng làng) tại đình thôn Hoài Trung, thôn Hoài Thượng - xã Liên Bão - huyện Tiên Du.

Theo cuốn "Di tích đền thờ Hai Bà Trưng" viết: "Đương thời nam nhi thao lược vị hữu kỳ nhân; nữ tướng soái binh thần linh phát động”, nghĩa là: “Lúc ấy nam nhi tài giỏi chưa có mấy người”. Theo cuốn: Lục Bộ nữ tướng thời bấy giờ: Hai Bà Trưng có sáu (bộ tướng) đều là tướng nữ: Tướng Hồ Đề, Tướng Lê Chân, Tướng Quách Lã Nương, Tướng Thánh Thiên, Tống Vĩnh Huy, Bát Nạn Tướng Quân.

Cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng thắng lợi nhưng lại là triều đại có thời gian tồn tại tương đối ngắn. Song nó đã lưu lại một mốc (đỏ) trong lịch sử giành chủ quyền độc lập, không chịu ách đô hộ ngoại bang của dân tộc Việt Nam ta. Vào cuối thời, vận nước nguy cơ bị đe dọa… Năm 42 (SCN) đế chế nhà Hán chúng huy động đại binh sang đánh trả thù và xâm lược nước ta. Do thế giặc mạnh, quân của Hai Bà đã kháng cự quyết liệt ở vùng biên giới Lạng Sơn, sau đó rút về vùng Lãng Bạc. Thực sự có sự quyết đấu tại Lãng Bạc mà sử sách đã ghi: Sách Di Tích Đền Thờ Hai Bà Trưng viết “Năm 42… Bà Trưng giao tướng Lê Chân vùng Quảng Ninh, Hải Phòng, tướng Hồ Đề vùng Bắc Giang (nay), tướng Phương Dung (Tiên Du) và một số tướng khác vùng Tiêu Tương, hợp lực đánh quân Mã Viện tại Lãng Bạc “đây là trận quyết chiến - chiến lược

Cuốn "Di tích đền thờ Hai Bà Trưng" viết: Tướng Lê Chân chỉ huy quân đánh giặc ở Lãng Bạc, sau đó rút về vùng núi Quảng Ninh, trong thế bất lợi, bà bay lên núi và “Hóa”. Bà Hồ Đề: Trong thế bất lợi “hóa” tại bến Tâm Thư sông Nguyệt Đức (sông Cầu). Dựa vào các thần phả truyền kể vùng Tiêu Tương: Thôn Bái Uyên - xã Khắc Niệm - Tiên Du có một địa danh đồng “Lẩy” nói lái từ “Đồng Lầy” khu này gần với địa danh “Chợ Âm Dương” ở làng Xuân Ổ (Ó), với truyền tích: Đây là phía Bắc hồ Lãng Bác, xảy ra trận quyết chiến giữa quân của Mã Viện với quân Hai Bà. Hiện trên cánh đồng của thôn Hoài Trung, Hoài Thượng, xã Liên Bão có địa danh “đồng xác, tương truyền đây là bãi chiến trường, quân hai bên chết nhiều “đồng xác”. Theo thần phả thờ tại đình Hoài Trung, Hoài Thượng thì 3 tướng Đệ Nhất Đông Quân - Đệ Nhị Đông Quân - Đệ Nam Đông Quân (ba anh em) cùng số tướng khác trong vùng đánh nhau với giặc trên cánh đồng này. 

Vậy có thể (đây là phía Bắc Lãng Bạc). Vùng Lãng Bạc nằm trong địa hạt vùng trũng huyện Tiên Du, mà phía nam là các dãy núi cao, kéo dài, từ xã Liên Bão, Khắc Niệm, huyện Tiên Du xuống vùng Quế Võ (tả ngạn sông Thiên Đức) theo nhánh phía Nam sông Tiêu Tương như “Đại Nam Nhất Thống Chí” triều Nguyễn ghi.

Các tướng vùng Tiêu Tương đã đi vào lịch sử, gắn với cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng. Trong trận Lãng Bạc, họ đã lần lượt “hóa (chết)” vì nghĩa lớn trong khoảng thời gian ngắn “Danh thơm muôn thuở, vọng mãi trời Nam”. Nơi mà đèn hương, khói lan tỏa không bao giờ dứt trên các làng quê cả nước, trong đó có làng quê vùng Bắc Ninh - Kinh Bắc chúng ta… có quê hương vùng Tiêu Tương./.

                                                                                                                                                                     DƯƠNG MẠNH NGHĨA