Trang chủ NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI

Ý NGHĨA, NGUỒN GỐC VỀ TRANH TƯỢNG TAM ĐA
14:50 | 23/09/2022

Những năm qua chúng ta đã có 10 di sản văn hóa vật thể và phi vật thể được thế giới công nhận. Bên cạnh những di sản văn hóa đó chúng ta còn nhiều những thành tố quan trọng như văn hóa dân gian đã đóng vai trò là nền tảng của văn hóa truyền thống. Những thành tố này mặc dầu không thể hiện ở qui mô lớn mà chỉ là những hình đơn lẻ, thành bộ hoặc nhóm được bày đặt một cách im lặng và khiêm tốn, kín đáo không phô trương, nhưng lại là những “linh hồn” đóng góp vào thành tựu, mà nếu không có nó thì những đời sống văn hóa di sản kia thiếu đi giá trị... Đó chính là những “Biểu tượng đặc trưng trong văn hóa truyền thống Việt Nam”. Những biểu tượng này có thể gặp ở khắp mọi nơi, từ lâu đài, cung điện nguy nga đến đình chùa, đền miếu. Nó khuất lấp đâu đó trong các gia đình mà chúng ta còn chưa hiểu nó một cách nguồn cuội đến ý tưởng trong hình khối nghệ thuật. 

Đó chính là những hình tượng cát tường (Điểm lành) để chúc tụng mà ta hằng mong muốn cầu nguyện như bộ Tam Đa - Bộ Tứ Bình đến Ngũ Phúc, Ngũ Hổ, Thất Hiền, Bát Tiên... Các vị thánh thần rồi Ngọc Hoàng - Đế Thích - Di Lặc... Bộ Tứ Linh, Rồng Phượng... Đến các mô típ trang trí trên xà nách, những hoa văn hình triện trên hoành phi câu đối, cùng rất nhiều các động thực vật, các đồ dùng trong sinh hoạt như: bầu rượu, kiếm, sáo... đã được cách điệu hóa thành mây bay, rồng, phượng...(các nghệ nhân vẫn gọi là hình hóa rồng, hóa lá).

 

1. Nguồn gốc xuất xứ của tranh tượng Tam Đa

Từ xa xưa, xuất xứ từ Trung Hoa sau lan tỏa sang các nước Đông Nam châu Á. Nguồn cội điển tích đã qua hàng ngàn năm đôi lúc bị uốn vặn, thêm bớt, có khi bị rườm rà thiếu tính thống nhất, xin tạm nêu sách: “Huyền thoại phương Đông”, nhà xuất bản Mỹ thuật 2003 cho rằng ông Phúc là Dương Tường, ông Lộc là Văn Xương. Theo sách: “Đường Thư” lại cho rằng Chân Võ Đại Đế là Phúc thần. Đạo giáo lúc đang hưng thịnh coi cổng tam quan là một thần linh: (Giữa là Thiên Quan Tứ Phúc, bên trái là Địa quan xá tội, phải là Thủy quan giải ách). Ba cửa này đều liên quan đến họa, phúc, vinh, nhục, ước vọng của con người nên gọi Đại Tam Quan là ông Phúc. 

Còn đến đời Tần dựng miếu thờ “Nam cực lão nhân” làm ông Thọ, nên tranh tượng về sau có dáng ông già đầu râu tóc bạc, trán cao rộng, tay chống gậy cong queo. Mới có câu “Thọ tỉ Nam Sơn”. Dưới đời vua Đức Tông, Dương thành Đao làm quan to ở phía biển, biết yêu thương dân như con và sống rất đạo đức khi mất dân gọi là phúc thần lập đền ghi công, mới có câu “Phúc như Đông Hải”. Vậy trong khuôn khổ một bài viết ngắn tôi chỉ nhằm dẫn ra ví dụ để cùng tham khảo chứ không có ý định xác minh tính hợp lý của tư liệu. 

Thấy sách “An Nam Chí Lược” của Lê Tắc nhà sách Văn hóa Đông tây tái bản năm 2002 là tương đối khớp với “Từ điển văn hóa cổ điển Trung Hoa” của Phạm tôn Nhan: rằng văn hóa cổ đã tồn tại rất nhiều “bộ tam” chủ sự may mắn là “Tam tinh” gồm “Phúc - Lộc - Thọ tinh”. Ban đầu là lời của Phong Nhân chúc mừng vua Nghiêu “Đa phú, đa nam, đa thọ” nghĩa là giàu có, nhiều con trai và sống lâu. Sau 3 lời chúc của viên quan này dường như là ước vọng của công chúng bấy giờ. Sau này người ta đã chọn 3 nhân vật đã qua thời gian lịch sử làm khuôn mẫu cho cụm biểu tượng “Phúc - lộc - thọ” làm Tam Đa từ đó. 

a. Đậu Tử Quân (ông Lộc): Một quan lớn đời Tấn, quyền cao chức trọng. Ông càng nổi tiếng giầu có bao nhiêu thì ông càng đau khổ khôn cùng vì giàu mà không có đích tôn nối dõi tông đường. Nên tiền của cuối đời đều rơi vào tay dòng họ khác...

b. Quách Nghi (ông Phúc): là 1 quan to đời Đường Cao Tổ - Hết lòng vì dân, luôn tạo công ăn việc làm cho người nghèo được nhân dân ghi nhớ công an, tuy thanh bạch nhưng con cháu đầy nhà cùng sống rất là hiếu nghĩa, biết kính trên nhường dưới, năm ông bà 83 tuổi thì có bé “chút” thế là thành “Ngũ đại đồng đường”, ông sung sướng bế bé lên vai, lấy làm rất hoan hỷ. 

c. Đông Phương Sóc (Ông Thọ): Là một viên quan tham thượng thư đời Hán tài giỏi và chính trực, trải qua nhiều đời vui đều được khen và tặng nhiều bổng lộc, ông thường tích cóp để dành, nổi tiếng tài giỏi nhiều mặt, vì đa tình nên nhiều vợ, ông hưởng thọ tới 125 tuổi, lưng còng hẳn xuống, và qua đời trong nỗi buồn đơn độc vì vợ con không ai còn sống, cháu đích tôn 4 đời phải lo đám. 

2. Ý nghĩa của Tam Đa trong nghệ thuật tạo hình

a. Ông Phúc (Quách Nghi)

Một vị quan trong bộ trang phục đơn giản mà đĩnh đạc, phong độ, điềm tĩnh, khoác trên mình một áo thụng màu xanh, màu của tương lai, đầu đội mũ vải mềm, dáng hoạt bát, nhanh nhẹn, tóc và râu ở ngũ quan đều đen, cùng khuôn mặt trắng sáng, quyền pháp rõ ràng, sống mũi hình nửa ống bương (đầy đặn, nây nả) miệng, môi đều và nhỏ, tất cả thể hiện cho sự khỏe mạnh, thông minh, thanh cao, mãn nguyện và có hậu. Một tay ôm em bé là lực lượng kế cận, ý nghĩa của “Nối dõi tông đường”, con cháu đầy đàn, trên thuận dưới hòa, vì quan niệm phương đông không có con nối dõi tổ tiên là bất hiếu. 

Trong Truyện Kiều có đoạn Thúc Sinh giả vờ định bắt chước người khác tự vẫn, rồi lấy cớ chưa có con nối dõi dòng tộc để chia tay với nàng Kiều. (Trung đường chút chửa cam lòng/Cắn răng bẻ một chữ đồng làm hai).

Ông Phúc trang phục không có đai to, mặt ngọc trễ rốn, chỉ có đai vải quấn lỏng hờ, đầu đai thả bộ xà tích có 2 hình con dơi được cách điệu, bố cục thành hình tròn gọi là hình Khánh Phúc. 

Trong tiếng Hán chữ Dơi ở bên phải có bộ “Nhất khẩu điền” giống với chữ Phúc, nên người xưa đã mượn hình tượng con Dơi cách điệu thành hình chiếc khánh, miệng hay ngậm chữ Phúc - Kim tiền hoặc chữ Thọ, để thể hiện cho các mong ước trên rất nhiều đồ án trang trí: Ta thường thấy bộ Ngũ Phúc (5 con) Dơi được cách điệu chạy len lỏi trong lồi lõm của chạm khảm, trông rất vui trên các lèo tủ và nhiều đồ án khác. 

b. Ông Lộc (Đậu Tử Quân): Với trang phục đại quan, một chân dung đầy đặn, phương phi, hồng hào, quyền pháp đầy đủ vì trong tay đang cầm một thẻ bài lớn, bộ râu đen đang lắc lư ngạo nghễ cùng bộ cánh chuồn trên đầu tỏ rõ sự hả hê, sung mãn, tràn trề sang trọng. Khoác trên mình bộ áo đỏ rộng, màu của sự hoan hỷ, giàu có, mạnh mẽ, thể hiện rõ thế và quyền lực, lại trang trí trên đai, mũ áo có rất nhiều ngọc ngà, chau báu, điểm đặc trưng trong 3 ông thì ông Lộc có bộ đai rộng, bụng to được trễ xuống qua rốn biểu tượng của sự no đủ, quá dư, thừa thãi. Ngực áo được thêu rồng, gấu áo là sóng thủy ba, nước là biểu tượng của khí mà có những ba lớp sóng được kết hợp với rồng trên cao đang phun nước, tạo thành một không gian trên trời, dưới đất, rồng, mây, nước đang quần thảo thúc đẩy vượng khí như thế mà không giàu có thì mới lạ...

c. Ông Thọ (Đông Phương Sóc): Xuất xứ là người nhà Trời xuống trần gian giúp nhà Hán với một sự nổi trội không bình thường lúc đó là sống 125 tuổi (gần gấp đôi cái tuổi cổ lai hy). Chính cái điển hình này đã được dân gian bóc tách ra thành một biểu tượng của “Sự sống lâu”. Hình tượng ông Thọ ở mọi nơi trong vùng Đông Nam Châu Á đều được diễn tả bằng một ông già râu tóc bạch kim (Trắng, vàng), đầu nhẵn bóng, cùng bộ lông mày dài rộng xuống tận rốn (lông mày dài như mái gianh là thọ). Tay chống gậy trúc quăn queo khúc khửu thể hiện cho cái già cỗi, đầu gậy treo hồ lô quả bầu với hai chỗ phình nở và eo ở giữa tạo cho hình thế phát triển gấp hai lần, trái bầu được xem là biểu tượng của Phật giáo có ý nghĩa là xung túc, giàu có và trừ những tà khí. Thể hiện sự phong lưu, chậm dãi, lúc lắc bên sườn là bộ xà tích vàng hình Khánh thọ và đôi cá chép được cách điệu, (ở Trung Quốc từ Ngư (cá) đọc giống như từ dư (dư thừa) nên hình cá là biểu tượng của sự giàu có). Một tay ôm trái đào rất to tượng trưng cho sự bất diệt, trường thọ, tương truyền rằng: bà Tây Vương Mẫu có một vườn đào 3000 năm mới có quả một lần, ai ăn được sẽ trường sinh bất lão, một lần bà xuống dâng cho Hán Vua Đế 7 trái đào và bàn truyện thần tiên, đồng thời tố cáo Đông Phương Sóc đã 3 lần trộm đào nên mới có truyện “Sống lâu thành tiên”. Ý nghĩa chân dung của ông Thọ mới đáng bàn hơn, theo sách nhân học của Ma Y Thần Tướng cho biết theo lý pháp:

* Thì Trán là phương Nam, phương của trời, trởi phải rộng lớn nên trán phải cao tơ, xương trán (biển địa) lồi lên càng rộng mênh mông càng tốt, nên các ông Thọ mà ta trông thấy đầu và trán như là bị biêu đầy và nhô lên.

* Cằm là phương Bắc (Địa các), hai bên thái dương kéo thẳng xuống tai cốt (là má) gần dái tai nối vòng xuống cằm thành một mạch đầy đặn nây nả, về cuối đời tuổi già, sức yếu, mùa đông gió rét không làm ăn được mà cằm vẫn nhô cao đầy đặn thể hiện đất đai vẫn mầu mõ, tài sản vẫn còn sung túc là Phúc - Thọ - Khang - Ninh...

3. Tam Đa trong tín ngưỡng dân gian 

Sự biến đổi của Tam Đa gần đây lại chuyển sang hướng khác. Một bộ Tam Đa lấy tên cây làm biểu tượng của Phúc, Lộc, Thọ. Cây Sung - Đa - Lộc Vừng là 3 loại cây mộc hoang không phải là cây quý hiếm, sau khi được xếp thành bộ tự chúng lại có giá trị, về mặt nghệ thuật tạo hình nó không có những tiểu tiết tượng trưng ý tưởng như đã trình bày ở trên - nhưng về mặt đời sống thực vật như dáng dấp, lồi lõm khúc khửu, cong queo vặn vẹo một cách tự nhiên nhiều khi lại rất đẹp và người ta chấp nhận nó, trong xã hội hiện đại do kinh doanh và giao thông tàu xe, thuyền bè lại thờ “Thần may mắn” trên đường đi hay Thần Tài Lộc, nhiều khi vẫn là một trong ba vị đó được biến dạng, lắp ráp thay đổi vị trí mà thôi. 

- Ở giai đoạn đầu biểu tượng Tam Đa được chúc tụng bằng lời, về sau ba điều ước đó trở thành biểu tượng của tinh thần và được nghệ thuật sắn tay uốn nắn nên gia trị mọi mặt đã được nâng cao. Ngoài việc hưởng thụ ước vọng dân gian ta còn gắn kết rất khéo tính giáo dục, ở đây ta thấy 2 ông (Lộc và Phúc) đã điển hình hóa là một cặp đối lập giữa giàu có và thanh bần, cao sang với giản dị, hợm hĩnh và khiêm tốn. 

Dường như sự nổi trội của ông Lộc khiến ông Phúc tưởng như lép vế, dân gian đã khéo léo lấy lại công bằng, còn là tính hơn hẳn trong cặp phạm trù (không con và có con), điều đó cho thấy sự sâu sắc trong tư duy. Hình tượng 3 ông được xem như một sáng tạo riêng biệt hết sức độc đáo, tác phẩm không đơn thuần là nghệ thuật mà còn là lời răn dạy mang tính giáo dục rất cao ở từng ông. Cái ước vọng của con người là vô cùng, tham quá thành độc ác lại mất Phúc - Thọ mà nghèo túng lại càng nguy - Đông con mà kém giáo dục thành tệ nạn cho xã hội. Hãy khiêm nhường mà sống theo đúng nghĩa làm người. Vì trời không cho ai và lấy đi của ai tất cả... 

Qua đó có thể thấy sự ra đời của tín ngưỡng đã có từ thời nguyên thủy, thờ các vật thần và các linh thần khác là một nhu cầu chính đáng. Vì trong đời sống của cá nhân phấn đấu cho sự nghiệp của mình nhiều khi thấy đơn lẻ cần phải có một lực lượng siêu nhân nào nhằm hỗ trợ tinh thần, cho nên dân vừa là vai trò sáng tạo vừa chịu sự chi phối của loại hình tín ngưỡng này. Chính vì thế mà tín ngưỡng thờ Bà Chúa Kho ra đời từ nhu cầu (vay vốn) thờ Quan Công là thể hiện (tín nghĩa) và cần được (bảo vệ). Thờ thần tài là nhu cầu đắc tài, đắc lộc, tín ngưỡng thờ Cô, Cậu ra đời là mong có con theo ý muốn./.

                                                                                                                                                                                                         MINH ĐẠT