Tam Sơn là nơi địa linh nhân kiệt, có truyền thống khoa bảng vẻ vang tiêu biểu hạng nhất của Bắc Ninh - Kinh Bắc với đủ người đỗ Tam khôi (Trạng nguyên, Bảng Nhãn và Thám hoa); có tới hai vị Trạng nguyên tài năng kiệt xuất - Nguyễn Quan Quang (Trạng nguyên đầu tiên của Việt Nam, đỗ năm 1246); Ngô Miễn Thiệu đỗ Trạng nguyên năm 1518, nổi danh là “lập thi thoái lỗ”, nghĩa là đứng làm thơ mà đẩy lùi được sự uy hiếp của giặc Minh.
Ngô Miễn Thiệu (1499 - 1556) con trưởng của Ngô Thầm, cháu họ Ngô Luân, cha của Ngô Diễn, Ngô Dịch con rể Khiết Trai. Ông thi đỗ Đệ nhất giáp Tiến sỹ cập đệ đệ nhất danh (Trạng nguyên) năm 20 tuổi, khoa Mậu Dần, niên hiệu Quang Thiệu thứ 3 (1518) đời Lê Chiêu Tông. Khoa này triều đình lấy đỗ 17 người, trong đó có 3 Tiến sỹ cập đệ, 6 Tiến sỹ xuất thân, 8 đồng Tiến sỹ xuất thân. Ông làm quan triều Mạc, được thăng chức đến Lại bộ Thương thư kiêm Đô ngự sử, Chưởng Hàn lâm viện sự, nhập thị kinh diên, Thượng trụ quốc, tước Lý Khê bá. Ngô Miễn Thiệu là nhân vật tài năng đức độ, thông minh từng được Vua Mạc triệu mời đặc cách để họa thơ khi giặc Minh nhòm ngó định xâm chiếm Đại Việt và ông đã “lập thi thoái lỗ”. Ông làm quan triều Mạc đến chức Lễ bộ Thượng thư kiêm Đông các Đại học sỹ Ngự sử đại đô, Hàn lâm viện thị thư, tước Trình Khê hầu. Ngô Tướng công mất ngày 16 tháng 12 âm lịch, thọ 58 tuổi. Sau khi tạ thế ông được triều đình truy tặng tước Quận công.
Theo sử chép và truyện ký: Năm khi 20 tuổi, Ngô Miễn Thiệu thi đỗ Trạng nguyên thời Vua Lê Chiêu Tông, sau đó làm quan cho triều Lê 9 năm, giữ chức Ngự sử - Lễ bộ Thượng thư - Đông các Đại học sỹ, tước Trình Khê bá. Năm 1527, Mạc Đăng Dung thoán đoạt ngôi nhà Lê; Ngô Miễn Thiệu vì trung thành với nhà Lê nên không chịu làm quan cho nhà Mạc, ông về quê Tam Sơn dạy học. Trong 8 năm dạy học Ngô Miễn Thiệu đã đào tạo được nhiều người thi đỗ Đại khoa, trở thành những nho quan có nhiều cống hiến cho dân, cho nước. Khi nhà Minh cho sứ sang hạch sách Vua tôi nhà Mạc, nhiều lần Triều thần đã phải dùng vàng bạc nhờ các quan ở Vân Nam tâu lên Triều đình nhà Minh giúp, mới được yên. Mặc dù vậy nhà Minh vẫn có ý đánh nhà Mạc, chúng cử các tướng dẫn quân uy hiếp, xem động thái nhà Mạc thế nào. Tướng nhà Mạc ép Mạc Đăng Dung phải đích thân đến cửa Nam Quan bỏ Đế hiệu, và chịu tiến cống như thông lệ. Mạc Đăng Dung cùng các cận thần đến Nam Quan, rối tự trói mình gặp sứ nhà Minh, chấp nhận theo đúng các yêu cầu, thần phục mà không xưng Đế. Nhà Minh yêu cầu trả lại mấy động mà Nùng Trí Cao đã chiếm từ thời nhà Lý và cống nạp theo lệ. Mạc Đăng Dung đều chấp thuận cả. Nhờ thế mà giặc Minh tạm không đánh sang nước ta.
Nhưng sau đó mấy năm liền nhà Mạc tiến cống đều thiếu, Vua Minh liền sai Hàn Ninh Hầu Cửu Loan làm Tổng đốc quân vụ, Binh bộ Thượng thư Mao Bá Ôn, làm Tham tán quân vụ thống lĩnh một đội quân sang hỏi tội nhà Mạc. Đội quân này đóng ngay tại biên giới hai nước Việt - Trung.
Mao Bá Ôn làm bài thơ “Vịnh bèo” nhằm miệt thị nhà Mạc và cũng là để thăm dò nhân tài nước Nam. Nội dung bài thơ như sau (phần dịch):
“Tràn lan ruộng nước nổi bồng bềnh
Khắp chốn xem ra gốc bám nông
Không có rễ mầm, riêng có lá
Dám sinh cành cội dám sinh lòng
Tụ rồi tán hay chăng tá
Nổi đó khi chìm có biết không?
Đến lúc chiều trời dông bão nổi
Quét ra hồ biển sạch bòng bong”.
Nội dung bài thơ trên đại ý là: Bèo mọc trong ruộng nước nhỏ như cái kim, rễ bám vào đâu thì không ai biết, không ăn sâu. Bèo đã không rễ, không có lá, không có cành. Tuy rằng hợp lại đấy nhưng lại tan rã cũng rất mau, chỉ một trận gió là tan tác, nếu gặp phải khi trời xấu, bão gió thì quét một trận là ra hồ bể, không ai còn thấy vết tích nữa.
Sở dĩ Mao Bá Ôn chọn “vịnh bèo” vì ông nội của Mạc Đăng Dung tên là Mạc Bình, mà Bình là bèo. Bài thơ thể hiện sự khinh miệt coi thường nhà Mạc (nhục quốc thể) và còn có ý coi thường Mạc Đăng Dung.
Nhà Mạc nhận được bài thơ trên nhưng không ai họa lại được. Cuối cùng có người tâu lên rằng chỉ có Trạng nguyên Ngô Miễn Thiệu mới có khả năng họa lại được bài thơ này. Vua bèn cho triệu mời ngay quan Trạng vào triều. Ngô Miễn Thiệu biết rõ tình hình và nội dung bài thơ, xem xong liền nói: “Nếu không có lời lẽ thống thiết (kiên quyết) thì làm sao để chúng nhụt ý chí mà lui quân được, nhà Vua muốn thì có khó gì”. Rồi quan Trạng đi đi laị lại trong phòng và đọc bài thơ như sau:
“Chen nhau vây gấm khó luồn Kim
Cành rễ liền nhau chẳng kể thân
Tranh với bóng mây trên mặt nước
Hé dung ánh nhật lọt dòng tâm
Nghìn trùng sóng đánh thường không vỡ
Muôn trận phong ba cũng chẳng chìm
Nào cá nào rồng trong ấy ẩn
Cần câu Lữ Vọng khó mà tìm”.
Nội dung bài thơ trên đại ý là: Bèo kết lại với nhau dày đặc như vẩy gấm, dù cái kim chui qua cũng không lọt, cành rễ liền nhau mọc chằng chịt ăn rất sâu. Thường cùng đám mây trắng tranh vẻ đẹp trên mặt nước, ôm cả vầng mặt trời vào lòng sóng, ngàn trùng sóng đánh cũng e khó có thể phá, vạn trận gió cồn cũng chẳng thể nào chìm. Bèo còn có cá rồng ẩn mình bên dưới, và khi Thái Công hết kế thì cũng buông câu xuống dưới đám bèo mà tìm.
Mao Bá Ôn nhận được và đọc bài thơ nêu trên thì biết nước Nam vẫn còn nhân tài như vậy, khó mà uy hiếp được, liền cho rút quân về nước.
Ai cũng biết vận mệnh của đất nước, mỗi khi có giặc xâm lăng (đe dọa) đều do Triều chính và nhân dân một lòng quyết định (thắng bại), nhưng vai trò của những nhân tài siêu Việt cũng không hề nhỏ.
Lịch sử và giai thoại nêu trên phản ánh sâu sắc về tài năng siêu Việt của Quan Trạng Ngô Miễn Thiệu, đã góp phần quan trọng vào "lập thi thoái lỗ"./.
-------------
(Nguồn: Sách “Các vị đại khoa tỉnh Bắc Ninh".
LÊ VIẾT NGA