Trang chủ NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI

TẾT VIỆT THỜI LÝ
16:44 | 18/01/2023

Tết Việt ngày nay được gọi là Tết cổ truyền, cơ bản vẫn giữ được nét xưa cũ của cha ông dù là ở thành thị hay khi sinh sống ở xứ người, mà biểu tượng tập trung ở câu: "Thịt mỡ, dưa hành, câu đối đỏ/ Nêu cao, tràng pháo, bánh chưng xanh". Vậy vào thời Lý nghìn năm trước, khi các yếu tố quốc gia, dân tộc bắt đầu đông kết vững chắc khỏi sự lệ thuộc phương Bắc thì Tết Việt diễn ra như thế nào?

Tết Việt là cách gọi Việt hoá tiết Nguyên Đán, tiết quan trọng nhất mở đầu một năm mới. Tiếng Hán đán là buổi sớm mai, nguyên là đầu tiên, Nguyên Đán là buổi sớm mai đầu tiên (của năm mới). Năm mới hiện nay theo lịch nhà Chu, lấy tháng Dần là tháng Giêng, theo kinh Dịch là quẻ Thái, âm dương cân bằng và giao hoà, phù hợp cho vạn vật sinh sôi phát triển (lịch nhà Hạ lấy tháng Tý là tháng Giêng, ngày nay dân ta vẫn quan niệm ngày Đông chí trong tháng Tý là thời điểm vị thần cai quản năm cũ bàn giao cho vị thần cai quản năm mới; lịch nhà Thương lấy tháng Sửu là tháng Giêng). Để cho năm mới mọi sự phát triển tốt đẹp người ta bày biện lễ vật cúng tổ tiên và thần linh phù hộ và xua đuổi tà ma quỷ quái tránh xa. Người ta cũng có nhiều nghi thức và lời nói trong những ngày Tết để cầu mong những điều tốt lành đến với mình và mọi người.

Vào thời Lý sử sách ghi lại không nhiều nhưng vẫn có thể hình dung một số nghi thức chính trong mấy ngày Tết như sau:

Tối 30 Vua thân hành đến yết kiến Thái hậu tại cung Đồng Nhân, nơi Thái hậu ở. Sau đó Vua về cung cho mời các tăng đồ cao cấp đến làm lễ tống trừ ma quỷ. Thời Lý dân rất mộ Phật, Vua cấp điệp độ cho làm tăng lữ và triều đình có hệ thống quan chức riêng, chức quan cao nhất là Quốc sư.

Thời điểm Giao thừa mọi nhà có mâm cỗ cúng trời đất ở ngoài sân và đốt pháo ở cổng để xua tà ma và đón năm mới.

Sáng mồng Một, Vua ngự ở cung Vĩnh Thọ để Thái tử và bá quan đến chúc mừng. Rồi vua đến cung Trường Xuân cúng tổ tiên. Cúng xong Vua đến cung Thiên An ban yến. Các Phi tần xếp hàng ngồi theo thứ bậc. Các Thái giám đứng hầu phía trước. Thái tử và bá quan đến lạy mừng và tiến rượu ba lần. Xong nghi thức là hưởng yến. Thái tử ngồi trên lầu. Bá quan ngồi ở phía Tây. Tiệc đến trưa mới tan. Trước cung Thiên An dựng thêm Đài Chúng Tiên hai tầng tam cấp ngói bạc là nơi Vua ngự yến. Bá quan chín lần tiến rượu dâng Vua.

Trong dân gian cũng có mâm cỗ cúng tổ tiên rồi đốt pháo tiễn năm cũ đón năm mới. Tiếng nổ của pháo cùng cây nêu trước nhà đủ sức xua đuổi tà ma xâm phạm vào nhà. Nhưng người dân vẫn cẩn thận treo bùa đào trước cửa và dán tranh Chung Quỳ trong nhà để ngăn tuyệt đối không cho tà ma bén mảng. Mâm cỗ sáng mồng Một cũng có đông đủ con cháu để chúc thọ ông bà cha mẹ. Trẻ nhỏ sẽ được lì xì mừng tuổi. Sau khi hạ cỗ mới bắt đầu đi chúc Tết. Các mẹ chuẩn bị sẵn mâm lễ lên chùa cầu Phật phù hộ năm mới mọi sự an lành. Trai gái cũng lên chùa hái lộc Phật. Buổi chiều bắt đầu các trò chơi dân gian ở sân đình. Đấu sức có đánh đu, kéo co, vật, gà chọi. Đấu tài có thi pháo đất nổ to, thi đi cà kheo, thi đi cầu thùm, bịt mắt bắt dê, bắt vịt dưới ao, bắt chạch trong chum. Đấu trí có thi tổ tôm điếm, đấu cờ bỏi. Thi văn nghệ có hát ví, hát ghẹo, hát xoan, hát Quan họ.

Ngày mồng Hai, bá quan được ở nhà làm lễ gia tiên và đi thăm nhau.

Ngày mồng Ba, Vua ngự lầu cửa Đại Hưng (cửa Nam) xem Hoàng tử và các quan Thái giám ném tú cầu. Mọi người cho rằng ai đón tú cầu mà không để rơi là gặp may mắn. Trong dân gian vẫn diễn ra trò chơi, ca hát. Riêng những người có học thì đi lễ thầy, sau này dân ta gọi mồng Ba là ngày Tết thầy.

Ngày mồng Năm, Vua mở tiệc Khai hạ, sau đó cho phép các quan được đi thăm vườn Thượng Uyển và các danh thắng ở hoàng cung.

Ngày mồng Bảy, dân gian hạ cây nêu và mở tiệc Khai hạ. Theo quan niệm xưa ngày mồng Bẩy là ngày hợp với chữ nhân, nếu tiết trời trong sáng thì năm ấy người mạnh khoẻ, bình an, sinh sôi đầy đàn nên nhà nào cũng ăn tiệc khai hạ. Triều đình thì cấp cho binh sĩ mỗi người 300 tiền và một tấm lụa đỏ, khao xôi và cá kho. Ngày nay dân ta gọi ngày mồng Bảy là ngày hoá vàng mã, hết Tết, để ngày hôm sau ra đồng. Điều này cũng phù hợp với quan niệm xưa cho rằng ngày mồng Tám đứng chữ cốc, hợp với sản xuất nông nghiệp.

Sách “Đại Việt sử kí toàn thư” có chép khá kĩ những ngày cuối năm 1127 và đầu năm 1128 khi Lý Nhân Tông qua đời và Lý Thần Tông nối ngôi. Vua Nhân Tông qua đời vào ngày 24 tháng Chạp. Vua Thần Tông lên điện coi chầu từ ngày 30 tháng Chạp. Hôm ấy xuống chiếu cho các quan được bỏ áo chở. Vua ra Na Ngạn xem các cung nữ lên giàn thiêu để chết theo Nhân Tông. Ngày mồng 1 tháng Giêng, Vua xuống chiếu đổi niên hiệu. Ngày mồng 2 tôn thuỵ hiệu cho tiên đế là Nhân Tông. Ngày mồng 3 biếm chức quan của Lý Sùng Phúc. Ngày mồng 4 xuống chiếu do có quốc tang nên dân không được cưỡi ngựa và đi võng màu lam cùng xe che màn. Ngày mồng 5, Vua bắt đầu nghe giảng sách. Ngày mồng 7, Vua sai quan đem lễ vật ban cho cha đẻ là Sùng Hiền hầu. Sách không chép về nghi thức đón năm mới của nhà vua, có lẽ cũng vì đang có quốc tang mà Vua nối ngôi mới 3 tuổi, lại là con Sùng Hiền hầu do Từ Đạo Hạnh đầu thai thác hoá vào.

Thời Lý còn một tiết rất quan trọng nữa là tiết Thiên Thành, tức là sinh nhật Vua. Thời Lý Thái Tổ, ngày này Vua sai lấy tre kết thành ngọn núi Vạn Thọ Nam Sơn ở ngoài cửa Quảng Phúc, trên núi làm hình chim muông chạy muôn vẻ kì lạ, lại sai người bắt chước tiếng của cầm thú làm vui, Vua ban yến cho bầy tôi. Thời Lý Thái Tông thì làm núi Vạn Tuế Nam Sơn bằng tre ở Long Trì, kiểu làm năm ngọn, trên đỉnh ngọn ở giữa dựng núi Trường Thọ, trên đỉnh bốn ngọn xung quanh đều đặt núi Bạch Hạc, trên núi làm hình trạng các giống chim bay thú chạy, lưng chừng núi có rồng thần quấn quanh, cắm xen các thứ cờ, treo lẫn vàng ngọc, sai con hát thổi sáo thổi kèn trong hang núi hát múa làm vui; cho các quan ăn yến. Quy chế núi năm ngọn bắt đầu từ đấy (theo sách Đại Việt sử kí toàn thư). Chữ "Thọ tỉ Nam Sơn" là từ điển tiết này./.

 

                                                                                                                                                                                                                      PHẠM THUẬN THÀNH