Xã Nội Duệ là vùng đất cổ, có núi, có sông tạo thế địa linh - mạch rồng thông thoáng. Cả bốn thôn của xã đều nằm trọn trong nếp uốn của dòng Tiêu Tương xưa. Bởi thế đất, thế sông thuận tiện đường giao thông thủy bộ. Nội Duệ trở thành nơi hội tụ để phát triển kinh tế đa nghề. Cấy lúa, trồng khoai, ươm tơ, dệt lụa, đánh bắt cá trên sông. Giao thương buôn bán lại có nghề thợ ngõa (thợ nề) đi xây dựng nhà cửa ở nhiều nơi. Từ đó có điều kiện học hành thi cử, võ nghệ tài ba nổi tiếng ở vùng Bắc Ninh - Kinh Bắc góp phần vào việc bảo vệ và phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội và sinh ra nhiều anh tài trong thời kỳ phong kiến.
Riêng về sự nghiệp cử nghiệp. Nếu xếp theo thứ bậc về các vị thi đỗ đại khoa ở Bắc Ninh - Kinh Bắc. Xếp theo thứ bậc ở Kim Đôi xếp thứ nhất với 25 tiến sĩ. Tam Sơn thứ 2 với 16 tiến sĩ. Trong đó có cả Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa. Nội Duệ đứng thứ 3 với 14 tiến sĩ. Trong đó có người đỗ đầu khoa Hoành từ năm 1431 niên hiệu Thuận Thiên thứ ba là Nguyễn Thiên Tích. Đỗ Bảng Nhãn khoa thi năm 1577; niên hiệu Sùng Khánh thứ 12 nhà Mạc là Nguyễn Nhâm Chiệm đỗ Thám Hoa khoa thi năm 1541; niên hiệu Quảng Hòa thứ nhất nhà Mạc là Nguyễn Thế Lộc. Tiêu biểu là những nhân kiệt sau:
1. Nguyễn Thiên Tích:
Ông tự là Huyền Khuê, hiệu là Tiên Sơn ở thôn Lộ Bao sinh vào triều Hồ (1400-1406) học trò của Vũ Mộng Nguyên. Nguyễn Thiên Tích đỗ đầu khoa Hoành từ năm 1431, năm 1434 được cử làm cục trưởng ngự tiền học sinh kiêm ngôn quan. Cuối năm ấy được cử vào đoàn sứ bộ sang nhà Minh năm 1435 về nước được giao làm ngự sử. Cuối năm 1438, ông lại đi sứ lần hai. Năm 1440 được thăng làm Hàn Lâm Viện thị đốc, thị học sĩ kiêm Ngự Tiền Học Sinh Cục. Năm 1442 khi Lê Thái Tông qua đời được giao soạn thảo văn bia Hựu Lăng dựng ở Lam Sơn (Thanh Hóa) và được giao làm Hàn Lâm Tri Chế Các.
Nguyễn Thiên Tích đã cùng Nguyễn Thiên Trúng, Lý Tử Tán soạn sửa bộ sách “Dư địa chí” của Nguyễn Trãi vào năm 1444. Sau đó được cử làm khảo quan khoa thi 1448 và giữ trách nhiệm trùng thư khởi xá hàng chục năm. Năm 1457 ông đi sứ sang Trung Quốc lần thứ ba.
Dưới thời Lê Thánh Tông ông được cử làm Độc Quyền Kỳ Thư Điện Các Tiến Sĩ rồi đến Binh Bộ Thượng Thư.
Nguyễn Thiên Tích không phải chỉ là nhà tổ chức, chính trị có tài, tư tưởng và ngoại giao lỗi lạc, ông còn là một nhà thơ. Xin trích một bài thơ trong tập thơ “Tiên Sơn Thi Tập” của ông:
Thơ làm trong thuyền
Đêm lặng, trăng như vẽ
Trời rét, tuyết thành hoa
Thuyền cô, khách ngàn dặm
Mười mơ, chín về nhà.
Đánh giá về Nguyễn Thiên Tích trong “Lịch triều hiến chương loại chí” Phan Huy Chú viết “Gặp việc gì ông đều nói hết không giấu giếm. Vua khen và bảo: Vương - Ngụy đời Đường không hơn gì. Ông do văn học được dùng, uy phong khẳng khái, trước sau không đổi được ơn tri ngộ bốn triều nhờ có tiết khí nên được tôn trọng.
Năm 1470 Nguyễn Thiên Tích mất tại quê nhà. Mộ của ông hiện ở giữa đồi Lim, thuộc thị trấn Lim huyện Tiên Du.
2. Nguyễn Thế Tân:
Người làng Lộ Bao, xã Nội Duệ (không rõ năm sinh năm mất). Căn cứ vào “Thọ phúc bia” được xây dựng năm 1672 tại làng Lộ Bao được ghi nhận tóm tắt như sau:
Nguyễn Thế Tân sinh ra trong một gia đình nho giáo, hiển cao tổ trên con đường khoa cử bước lên học vị tiến sĩ. Với tài năng của mình năm 20 tuổi được phong khâm sai tiết chế với quyền kiểm soát các sứ kể cả thủy bộ chư doanh. Ông đã cùng tổng chính thái úy Nghiêm Quốc Công vỗ an trong ngoài, sửa sang giường mối với các lân bang vừa làm việc, vừa nghiên cứu và ông đã trở thành người thông hiểu phong tục tập quán và Bắc ngữ của vụ Cần Ty. Năm 30 tuổi ông đã nổi tiếng giỏi giang mọi việc và việc nào được giao cũng đều thông suốt. vốn là người coi trọng quyền tước noi theo người xưa đối với người tài giỏi, nhà Vua phong cho ông là Chương Hợp Nghĩa. Chính hồng ân ấy, đồng thời khi qua chùa Đại Lý nhận được điềm lành được nhà vua soi rọi cân nhắc, giao cho ông chiếc hốt bằng ngọc bích để ông có đủ quyền hành và gánh vác việc thu xếp chọn người tài ra giúp nước qua con đường sĩ lộ.
Trong con đường bang giao với phương Bắc, ông được cử đi sứ 3 lần và đều hoàn thành công việc giữ gìn giao hải giữa hai nước, góp phần làm cho đất nước hưng thịnh. Năm Quý Mão sau lần thứ 2 đi sứ, ông được trở về Kinh Bắc tham gia chính sự, năm Đinh Mùi sau 6 năm đi sứ lần thứ 3. Sau đó ông được sang Hải Dương nhận nhiệm vụ mới và được ưu thưởng tước hầu.
Hiện nay, tại mộ phần của ông có tấm bia ghi “Phụng tặng: Hình Bộ Thị Lang Lâm Quận Công Nguyễn tướng công chi mộ”.
3. Quận Công Đỗ Nguyên Thụy:
Người làng Đình Cả, sinh vào cuối thế kỷ XVII, theo nội dung ở bia “Hiến điền bi ký” công lao và sự nghiệp của Quận công Đỗ Nguyên Thụy đã trải qua các chức quan khác nhau, từ Thị trù triệu Phó Thủ hựu, Thị hầu ưu nhất, Ưu tả kiêm Thuyền chi quan, Phó Thị nội thư tả công phiên đến Thị Cận thị nội giám, Tư lễ giám, Tổng thái giám, Đô chỉ huy sứ, Giao Quận công.
Vinh dự thay, một con người có tài ứng biến, chí tiến thủ lại gặp may được vời vào làm việc ở nơi cung cấm, gần gũi Chúa Thượng trông coi chu tất mọi sự hơn hai mươi năm. Kể cả huấn luyện cấm binh, được bá quan trong triều mến phục.
Với khí tiết của người quân tử coi nhẹ tiền tài, một lòng mến mộ, từ bi ngài luôn mong muốn đem ân huệ của mình giúp đời, chẳng kể thân sơ. Ngài đã ban mưa móc cho mọi người ở nơi quê nhà khiến cho ai ai đều hân hoan yêu kính. Ân đức như núi cao biển rộng ấy của ngài cần được khắc vào bia đá để hậu thế được biết rõ. Vì thế mà việc thờ cúng không bao giờ dứt.
Quận công Đỗ Nguyên Thụy cho các làng xã trong tổng Nội Duệ tổng cộng là 40 mẫu ruộng và tám trăm quan tiền cổ. Ngài cũng định ra lễ thần kết hợp với ca hát ở tổng Nội Duệ vào tháng tám và tháng giêng hàng năm. Nhưng chủ yếu vào tháng giêng từ ngày 15 đến ngày 21. Đây là khởi thủy của lễ hội Lim sau này. Ngoài tài năng về quân sự, chính trị Quận công Đỗ Nguyên Thụy còn là nhà kiến trúc xây dựng cung điện ở Đông Đô và ngôi đình của làng Đình Cả.
Quận công Đỗ Nguyên Thụy mất vào năm 1734, an táng tại quê nhà.
4. Nguyễn Đình Diễn:
Người làng Đình Cả, sống vào thời Lê Cảnh Hưng trong một gia đình nhiều đời làm quan võ trong triều. Ông được cử làm Trấn Thủ kiêm Đốc Đồng Trấn Thanh Hoa, tước Hiếu Trung Hầu, do có chiến công dẹp loạn nên được phong làm Bình Nhung Đại Tướng Quân. Nguyễn Đình Diễn noi theo Quận công Đỗ Nguyên Thụy cũng có nhiều đóng góp về tiền của đất đai cho quê hương và có ảnh hưởng lớn đến xác lập tập tục, mở mang hội hè của tổng Nội Duệ, đặc biệt là lễ hội Lim ngày nay.
Trong cuốn sách lịch sử xã Nội Duệ xuất bản năm 1992, trang 40 trích sách “Bắc Ninh phong thổ” viết như sau: Hội Hồng Vân sơn vào ngày 13 tháng giêng, 6 xã trong tổng Nội Duệ áo mũ, cờ trống chỉnh tề, hội họp ở đình cạnh núi. Các xã cử trai gái ra làm con cờ, mỗi xã một bộ luân thứ bày hang. Người nào thắng cuộc được hậu thưởng. Tương truyền xưa có Trung hầu họ Nguyễn làm Trấn Thủ Thanh Hóa, có thực ấp giàu vạn cư, về hưu đã đưa sáu mươi mẫu ruộng tốt để hiến vào đền lưu thưởng cho kẻ sĩ và hương hỏa về sau. Lại mua nửa núi Hồng Vân, trên núi dựng lăng đá, trong lăng có tượng đá, ngựa đá, thú đá, tượng võ sĩ. Khi chết an táng ở đó, 6 xã trong tổng thờ cúng.
Các vị nhân kiệt kể trên đã góp phần tô thắm thêm truyền thống vẻ vang của quê hương Nội Duệ - địa linh./.
NGUYỄN THẾ CHƯƠNG