Liên kết website
 Thống kê
   Đang truy cập
19
Tổng lượt truy cập
38365

Trang chủ NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI

CHÙA TAM SƠN VỚI TRIỀU ĐẠI NHÀ LÝ
14:12 | 28/07/2020

 

 

Lịch sử các triều đại trong lịch sử Việt Nam nói chung vùng Bắc Ninh - Kinh Bắc “Lõi là Diên Uẩn - Cổ Pháp”, trong không gian văn hóa của triều đại nhà Lý, có liên quan đến một số ngôi chùa, trong đó có chùa Tam Sơn còn tên gọi là Ba Sơn.

Theo cuốn “Khu di tích Luy Lâu - giá trị văn hóa và bảo tồn” do Sở Thông tin và Truyền thông tỉnh Bắc Ninh xuất bản 2016; được biết: “Thế kỷ thứ VI đến thế kỷ IX, Luy Lâu (Thuận Thành) là Trung tâm Phật giáo của Việt Nam cùng với Đại La (Hà Nội). Quá trình phát triển ở Luy Lâu đã tạo ra được 31 vị cao tăng người Việt nổi tiếng, từ đó tỏa ra các nơi trong nước, xây dựng các chùa rồi trụ trì, trong đó có vùng Bắc Ninh - Kinh Bắc (trọng tâm là vùng Diên Uẩn (Cổ Pháp) - Dịch Bảng”. Như vậy từ thế kỷ thứ VIII đến thế kỷ thứ IX vùng Diên Uẩn (Cổ Pháp) đã có phật giáo, thể hiện có các chùa Tiêu Sơn (Tương Giang) Ba Sơn (Tam Sơn), chùa Quỳnh Lâm, Minh Châu (Dương Lôi - Tân Hồng), chùa Cổ Pháp (Đại Đình - Tân Hồng).

Chùa Ba Sơn (Tam Sơn) có lịch sử rất lâu đời, khoảng thế kỷ IX hoặc X (sau chùa Tiêu) chùa Tam Sơn hình thành trên nền tảng khi đạo Phật đã phát triển mạnh ở Bắc Ninh - Kinh Bắc. Nay chùa Ba Sơn thuộc làng Tam Sơn, xã Tam Sơn, thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Chùa có tên gọi khác nhau theo từng thời kỳ: Cảm Ứng  - Cảm Ứng Thánh Tự - Ba Sơn - Tam Sơn. Riêng về việc này chùa Ba Sơn (ở Tam Sơn), chùa Tiêu Sơn (ở Tương Giang), các học giả khi viết bài đã có sự nhầm lẫn về địa danh (cho là chùa Tiêu Sơn ở Tương Giang cũng là chùa Ba Sơn) bởi hai chùa này tuy khác xã nhưng ở rất gần nhau; chỉ cách 500m theo đường chim bay.

Chùa Tiêu Sơn có các tên chùa Tiêu, chùa Tiêu Sơn, chùa Cao (bởi có phân nhánh hữu sông Tiêu Tương) là chùa Tràng Liêu dưới thấp, chùa Cảm Ứng Thiên Tâm, chùa Lục Tổ (bởi chùa có thờ lục Tổ Huê Năng (638 - 713). Chùa Tiêu Sơn tọa lưng chừng núi Tiêu phía tây nhìn xuống dòng Tiêu Tương, một quả núi độc vị cao 35,8m. Chùa Ba Sơn (Tam Sơn) tọa đỉnh một trong ba (núi thấp). Tam Sơn tên nôm gọi là đất ba gò, chùa Tiêu Sơn (Tương Giang) chưa bao giờ có tên gọi là Ba Sơn.

Sử chép: Năm Lý Công Uẩn 8 tuổi thì sư Khánh Văn ở chùa Cổ Pháp giao cho Lý Vạn Hạnh trụ trì ở chùa Lục Tổ (chùa Tiêu) nuôi dạy... Lý Công Uẩn có thời kỳ làm tiểu ở chùa Kiến Sơ (Phù Đổng) và làm tiểu ở chùa Cảm Ứng (Tam Sơn).

Truyền thuyết dân gian về Lý Công Uẩn khi làm tiểu ở chùa Tam Sơn... Thường lệ vào ngày rằm, mồng một, nhà chùa cúng oản, có lần tiểu ăn vụng oản bằng cách khoét đít oản ăn ruột, rồi lại dán lá mít vào đáy nhà chùa không biết ai làm chuyện này, chỉ riêng Đức Ông biết... ban đêm ngài báo mộng cho Vạn Hạnh

- Sao có người ở chùa của Thầy lại cứ ăn trước Phật? Vạn Hạnh đoán ngay việc này chỉ có Công Uẩn đang làm tiểu chứ còn có ai nữa. Vạn Hạnh gọi về chùa Tiêu Sơn trị tội đánh đòn. Đêm đó bị phạt phải nằm ở ngoài trời, bị muỗi cắn không ngủ được. 

Công Uẩn tức cảnh có bài thơ tả đêm khuya:

Phiên âm: 

Thiên vi khâm chẩm, địa vi chiêu

Nhật nguyệt đồng song đối ngã miêu

Dạ thâm bất cảm trường thân túc

Chỉ khủng sơn hà xã tắc thiên

Dịch:

Trời làm chăn, đất làm đệm

Nhật nguyệt nhòm ta ngủ trước song

Đêm khuya chẳng dám dang chân duỗi

Chỉ sợ lăn kềnh cả núi sông

Cả đêm bị phạt nằm ngoài trời muỗi cắn, từ một ngọn núi cao nhìn xuống dòng Tiêu Tương, theo chiều thẳng đứng tới mép sông chỉ vài chục mét, rất có ý sợ “lăn kềnh cả núi sông”. Sáng hôm sau hết phạt Công Uẩn chạy sang chùa Cảm Ứng (Ba Sơn) bụng ngẫm; chỉ có Đức Ông mới biết chuyện này mà báo với thầy Vạn Hạnh: Công Uẩn tức quá lấy bút viết chữ “xuất” vào má tượng và viết chữ “lưu viễn phương” vào sau lưng Đức Ông. Ngay đêm đó Đức Ông lại báo mộng cho Vạn Hạnh rằng: Người của thầy “vua” đuổi tôi đi rồi... đi biệt xứ 3000 dặm. Vạn Hạnh qua chùa Cảm Ứng thấy đúng là như vậy, bèn mắng to “thử” trước cả bọn trẻ chăn trâu.

- Đứa nào viết chữ ở tượng Đức Ông  phải xóa ngay. Rồi sư đứng nấp theo dõi xem đứa nào viết. Thì ra đúng là Công Uẩn đi xóa các chữ đã viết, ngay đêm đó Đức Ông báo mộng cho Vạn Hạnh... “vua” đã cho ở lại rồi.

Chùa Ba Sơn thời kỳ ấy là nơi trụ trì của nhiều vị cao tăng có uy tín, kể cả thiền sư Vạn Hạnh thường qua lại giữa hai chùa Tiêu Sơn và Ba Sơn.

Ngay từ buổi đầu lúc hàn vi Lý Công Uẩn có lần đã được Vạn Hạnh giấu ở Ba Sơn, tránh sự truy đuổi của nhà Tiền Lê (Ngọa Triều). Khi mới đăng quang ở kinh thành Hoa Lư, vua đã sai thân tín của mình là tướng Đào Cam Mộc, cho người về giúp việc nhà sư Vạn Hạnh, nhưng ẩn danh tính cải trang làm tiểu ở chùa Ba Sơn. Tháng 11 năm 1009 Lý Công Uẩn lên ngôi báu ở Hoa Lư. Mùa xuân 1010 vua về quê khánh thành miếu thờ tổ (Đền Thiên Đài) ở Dương Lôi thờ mẹ, vua đã đi thăm lại chùa Kiến Sơ, Tiêu Sơn, Cổ Pháp, Ba Sơn, kỷ niệm thời thơ ấu của người.

Sau đó đến đời thứ ba Lý Thánh Tông, trích trong sách Việt Sử Lược “Năm Tân Sửu, hiệu Chương Thánh - Gia Khánh năm thứ ba (1061) Lý Thánh Tông đi cầu tự ở chùa Ba Sơn, (trang 98 quyển hai)”.

Cũng trong sách này “Năm Quý Mão hiệu Chương Thánh - Gia Khánh, năm thứ năm (1063) vua sai xây chùa Ba Sơn để làm nơi cầu tự (trang 99 quyển hai).

Tiếp trong triều đại nhà Lý, thời gian sau có nhiều Phi tần, Nguyên phi (vợ Vua) các Công chúa, Thị nữ về chùa Ba Sơn lễ Phật và vãn cảnh chùa. Trong không gian chùa chính: Hành lang phía Tây hiện còn thờ các Nguyên phi là Thuần Châu Nguyên phi, Bảo Liên Nguyên phi và Thuận Dương Công chúa. Dưới chân núi trước cửa chùa (xưa) có am hoa viên thờ ba vị tôn nữ, Công chúa nhà Lý.

Chùa Tam Sơn chứa đựng nhiều di tích văn hóa lịch sử, nổi bật là một ngôi chùa (cổ) gắn liền với sự phát tích, phát triển của triều đại nhà Lý đã tồn tại hàng nghìn năm. Đánh dấu một giai đoạn lịch sử của một triều đại, Nhà nước Đại Việt kéo dài 216 năm nơi quê hương nhà Lý vùng Bắc Ninh - Kinh Bắc.

Cùng với chùa Tiêu Sơn bên cạnh, chùa Tam Sơn (Ba Sơn) qua các thời đại Trần - Lê - Nguyễn đã được trùng tu, sửa chữa nhiều lần. Với quy mô to lớn, hoành tráng, tố hảo, chùa có sự sắp xếp bài trí thờ khá chặt chẽ hài hòa.

- Khu thờ Phật: Thờ Quan Âm Bồ Tát, phật A Di Đà và các hậu Phật.

- Khu thờ Ngọc Hoàng, Nam Tào, Bắc Đẩu.

- Khu thờ Thần: Long thần, Thổ địa, Sơn thần, Nông thần...

- Khu thờ các vị Tiên hiền: Thờ các vị khoa bảng (Tam Sơn có 16 vị Tiến sỹ).

- Khu thờ Thành Hoàng làng: Trạng nguyên Nguyễn Quan Quang, khởi đầu nền khoa bảng của Tam Sơn. 

- Khu vực thờ các Phi tần, Nguyên phi, Thị nữ và Công chúa của các vua Lý.

- Khu vực nhà Tiền đường, là nơi hội họp thường xuyên của dân làng.

Hiện các cổ vật còn được lưu giữ ở chùa Tam Sơn gồm: Tượng Quan Âm nghìn mắt nghìn tay, tượng phật A Di Đà và các tượng hậu phật, bia đá các loại gồm: khánh đá được tạc năm 1672, cây hương đá xanh hình trụ có khắc chữ Hán 4 mặt. Quả chuông đồng “Cảm Ứng Thánh Tự Hồng Chung” đúc vào tháng một năm Minh Mệnh thứ bẩy (1826). Với các câu đối “Lý triều đường hiển thánh/Sơn mộ chủ anh Minh” và “Bát đế triều đường viên cảnh tượng/Tam thần miếu đống thử ân duy”.

- Cổ vật thời đại Hồ Chí Minh “Cây đa Bác Hồ trồng”. Trước cửa chùa Tam Sơn, thời khắc 11 giờ (giờ Ngọ) ngày mồng một tết Đinh Mùi 1967 (tức 9/2 dương lịch 1967).

Hiện với sự bài trí thờ cúng ở chùa Tam Sơn cho ta thấy thể hiện một sự hội tụ của nhiều tôn giáo và tín ngưỡng. Thể hiện tinh thần trọng học, trọng khoa bảng, trọng làm việc nghĩa, việc thiện với truyền thống “Uống nước nhớ nguồn”  có giá trị văn hóa, nhân văn tại chùa Tam Sơn.

Mùa đông cuối năm 1972, trong đợt không quân Mỹ đánh vào Thủ đô Hà Nội. Chùa Tam Sơn đã bị máy bay B52 của giặc Mỹ ném bom rải thảm, chùa bị tàn phá nặng nề. Từ năm 1998 đến năm 2000, Nhà nước (tỉnh và Trung ương) đã cấp kinh phí hỗ trợ, cộng với sự đóng góp của nhân dân, khách thập phương. Chùa đã được làm mới, sửa chữa tôn tạo một số hạng mục công trình, trong đó có gác chuông, năm 2005 trùng tu nhà Tiền Đường, năm 2006 khôi phục nhà Hội Đồng Sở...

Đến nay chùa Tam Sơn (Ba Sơn) đã trở nên khang trang, tố hảo phù hợp lòng dân, xứng đáng đóng góp vai trò trong việc bảo tồn. giá trị văn hóa, lịch sử của một ngôi chùa (cổ) đánh dấu một thời kỳ lịch sử nơi phát tích, phát triển của triều đại nhà Lý trong lịch sử Việt Nam, cũng là góp phần bồi đắp một di sản văn hóa lịch sử nằm trong không gian văn hóa nhà Lý trên quê hương Bắc Ninh - Kinh Bắc./.

                                                                                                                                                                                                                                                 DƯƠNG MẠNH NGHĨA