Trang chủ

TƯ LIỆU DÂN GIAN VỀ THÁI SƯ LÊ VĂN THỊNH
21:00 | 14/11/2017

 LÊ VIẾT NGA

 

Viết về gia đình và thời niên thiếu của Lê Văn Thịnh, hiện nay chúng ta cũng chủ yếu dựa vào nguồn tư liệu dân gian, vào sử liệu thần tích, thần sắc hiện còn. Theo nguồn tư liệu nêu trên, về gia đình và thời kỳ niên thiếu của tiên sinh Lê Văn Thịnh, được khái lược như sau:

Lê Văn Thịnh sinh ra và lớn lên ở vùng quê ven triền núi Thiên Thai thuộc trang Bảo Tháp xưa, nay là làng Bảo Tháp, xã Đông Cứu, huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh. Thân phụ là Lê Văn Thành làm nghề bốc thuốc chữa bệnh giúp người và dạy học mở mang dân trí cho người dân trong vùng. Thân mẫu là Trần Thị Tín, quê ở Ngô Xá trang, xã Cách Bi, huyện Quế Dương (nay là thôn Thi Xá, xã Cách Bi, huyện Quế Võ). Thân phụ, thân mẫu Lê Văn Thịnh đều là nông dân thật thà, chất phác, sống nhân đức, luôn giúp đỡ người nghèo khó.

Lê Văn Thịnh từ thời niên thiếu đã nổi tiếng là “thần đồng” nên kỳ thi nào ông cũng đều thi đỗ cao nhất nhì trong lớp. Truyền kể, khi ông còn là cậu học trò ít tuổi ở nhà với thân mẫu, đêm nào cậu cũng học rất khuya, chong đèn trong màn đọc sách rất say mê. Bà mẹ ngủ chẳng yên giấc vì lo cho sức khỏe của con, nên khuya thường giục con đi ngủ cho lại sức hôm sau học tiếp. Một đêm nọ bà mẹ trằn trọc chưa ngủ được, nghe rõ tiếng gà đã gáy báo đã canh ba, lòng mẹ bồi hồi phấp phỏng bước đến bên con, toan ép cậu đi ngủ. Nhưng đến gần thì mắt bà bỗng nhòa đi, không nhìn thấy Văn Thịnh đâu nữa mà lại thấy một ông Bạch Hổ ngồi chồm hỗm trên giường. Bà mẹ kêu lên thất thanh rồi ngất lịm đi. Nghe tiếng kêu người nhà thức cả dạy và chạy đến, khiêng bà ra nhà ngoài. Bà mê man chốc lát rồi mới tỉnh lại. Bà ngạc nhiên thấy Lê Văn Thịnh cùng với người nhà đều ở đấy cả. Bà bồi hồi kể lại sự tình cho mọi người nghe rồi tự cho đó là ác mộng nên sau nguôi dần đi. Khi Lê Văn Thịnh lớn lên rồi đi thi, truyện còn kể rằng: Tiên sinh học quá khuya nên dậy muộn giờ đi thi, đã dùng “thuật khoán mặt trời” (cho mặt trời chạy chậm lại) để kịp đến trường dự thi.

Tư liệu về thời niên thiếu và gia đình Lê Văn Thịnh chủ yếu là được ghi trong các bản thần tích và truyền kể của nhân dân địa phương. Tuy nhiên cũng có sự khác nhau:

* Ở vùng Đông Cứu, huyện Gia Bình, nhân dân địa phương còn lưu tư liệu cho biết: Lê Văn Thịnh sinh ngày 11 tháng 2 năm Canh Dần (1050). Lên 7 tuổi tiên sinh đi học, 13 tuổi đã biết hết về kinh thư, thiên văn địa lý đều tỏ tường, học trò thời ấy rất thán phục, gọi Văn Thịnh là thần đồng. Đến năm 18 tuổi, bố mẹ mất, ông lo an táng và ở nhà hương khói phụng thờ. Sau ba năm đoạn tang, Văn Thịnh đến trang Tri Nhị, thấy dân ở đây quê mùa, thật thà nhưng ít học vấn, ông bèn bảo dân dựng trường để ông dạy học cho. Vậy dân nơi đây biết chữ, lễ nghĩa là do tiên sinh Lê Văn Thịnh truyền dạy.

Trong bản thần tích xã Đình Tổ, huyện Siêu Loại, phủ Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh (ký hiệu AEA7/28) hiện lưu trữ tại Viện nghiên cứu Hán Nôm và Bảo tàng tỉnh Bắc Ninh, nội dung ghi chép về Lê Văn Thịnh có nhiều điểm khác với những bản sự tích về Lê Văn Thịnh ở vùng Đông Cứu, huyện Gia Bình.

Phần nội dung về gia đình, thời niên thiếu ghi tên cụ thân sinh ra Lê Văn Thịnh là Lê Văn Thành, trùng với sự tích ở vùng Đông Cứu; còn tên thân mẫu và quê quán, sự tích thì khác hẳn. Nội dung bản thần tích như sau: “…Lại nói, trước đó, ở trang Đông Cứu, huyện Gia Định, phủ Thuận An, xứ Kinh Bắc (thời cổ gọi là quận Vũ Ninh), có ông Lê Văn Thành lấy bà Nguyễn Thị Mậu, người trang Hà My, huyện Nông Cống, phủ Thọ Xuân thuộc Châu Ái. Vợ chồng kết duyên nhau được hơn mười năm mà chưa thấy báo điềm con cái. Ông bà càng tích cực làm điều thiện, chăm lo làm điều nhân, thường giúp nghèo, cứu khổ, ngày đêm thắp hương khấn trời, khấn rằng: Vợ chồng tôi sống ở đời tích thiện tất sẽ hưởng niềm vui lớn, hà cớ gì đến nay chưa có con nối dõi? Ý giả lòng trời cho rằng vợ chồng tôi có lỗi gì chăng nên mới chịu cảnh này? Hoặc giả có điều gì ác mà phải chịu đựng?

Một hôm, nhân lúc ông bà ngồi nhàn, cùng than phiền về đường con cái, mới bàn với nhau rằng: Nghe nói vị thần ở núi Tản Viên, huyện Bất Bạt, Châu Phong rất linh thiêng, nhiều người cầu tự đều được như ý. Hơn nữa, người xưa có nói: Tội bất hiếu có 3, tội vô hậu là nặng nhất. Chẳng gì bằng vợ chồng mình tự đi cầu tự”. Thế rồi, ông bà chọn ngày, sửa lễ vật đến núi Tản Viên cầu tự. Đêm ấy, bà mộng thấy một ông già mặt đỏ hồng hào nói rằng: Số vợ chồng bà đáng ra vô hậu nhưng vì tích thiện, làm nhiều việc tốt, nên tôi tâu với thiên đình cho một vì sao văn đầu thai nhập vào bà làm con, vợ chồng bà không còn phải lo lắng gì nữa. Tỉnh dậy thì thấy trời sắp sáng, ông bà làm lễ bái tạ thần rồi trở về nhà.

Được hơn một tháng, bà Nguyễn Thị Mậu quả nhiên mang thai. Sau mười ba tháng, sinh được một người con trai (hôm ấy là ngày 13 tháng 4). Đứa trẻ có dáng vẻ đường hoàng, khí chất lạ thường, mặt vuông tai lớn hiên ngang như một vị đại trượng phu. Năm lên 5 tuổi, ông Lê Văn Thành đặt tên cho con là Thịnh. Đến năm 8 tuổi, ông bắt đầu dạy con học chữ, thấy sức học của con rất giỏi, không chỗ nào không biết. Đến năm 15 tuổi, Lê Văn Thịnh đã thông văn tự. Bấy giờ, ông Lê Văn Thành có người bạn tốt là tiên sinh họ Ngô ở trang Thanh Oai huyện Thanh Oai, phủ Ứng Hòa, xứ Sơn Nam Thượng, bèn gửi con đến đó học tập. Lê Văn Thịnh học trong 5 năm thì tinh thông kinh sử, nghe một biết mười. Tiên sinh họ Ngô biết đây là người tài gỏi, tự coi như thần đồng phục sinh ứng thế, tất sẽ đoạt khoa giáp. Khi Lý Nhân Tông khai khoa thủ sĩ, Lê Văn Thịnh về kinh dự thi, thi lần đầu trúng Tiến sỹ cập đệ. Lý Nhân Tông rất ân sủng ông, có tặng một bài thơ, rằng:

Phiên âm:

Tài nan tự cổ tằng thâm thán,

Học bác như công độc thác nhiên.

Túng sử đương niên mưu quốc sự,

Chính hình lễ nhạc vĩnh vô khiên

Dịch nghĩa:

Từ xưa, tài năng khó tìm,

Từng có nhiều lời than thở.

Học rộng như ông chỉ có được mình ông.

Giúp việc chính hình, lễ nhạc mãi mãi không để sai.

Ông trở về quê bái tạ tổ đường cùng song thân để tỏ ý không phụ khoa danh. Vua triệu ông về triều trao chức Đốc đồng nhưng ông từ chối, chỉ xin ở nhà để phụng dưỡng cha mẹ. Năm 25 tuổi, thân phụ là Lê Văn Thành không mắc bệnh mà mất (Hôm ấy là ngày mồng 5 tháng 5). Sau ba năm mãn tang cha thì mẹ là Nguyễn Thị Mậu cũng mất (hôm ấy là ngày mồng 3 tháng 3). Ông nén chịu đau thương giữ trọn việc hiếu.

 

Lại nói, vốn trước đây khi chưa đỗ đạt, bấy giờ ông theo học ở Tiên sinh Ngô Thì Du người trang Thanh Oai. Tiên sinh thấy đây là người phi thường nên gả con gái là Ngô Thị Thục cho ông. Khi lo xong tang cho song thân, ông trở về quê vợ mở trường dạy học. Trải trong 15 năm, học trò ở đây có nhiều người thành đạt. Sau đó người thân trong trang Đông Cứu huyện nhà mời ông về quê dạy học. Ông nhận lời, khi trở về đến trang Đình Tổ huyện Siêu Loại, phủ Thuận An thì trời sắp tối, bèn trú lại tại xứ Cây Gạo trong trang vốn là nơi có thế đất quý. Đêm ấy, khí trời trở nên tối tăm, ông hóa ngay tại xứ đó (hôm ấy là ngày 24 tháng 12). Hôm sau, mọi người ra xem, chỉ còn thấy một ngôi mộ lớn. Sau đó, người và vật trong trang không yên, mới lập đàn triệu ông. Hồn ông nhập vào người lên đồng báo rằng: “Ta tên là Lê Văn Thịnh người trang Đông Cứu, huyện Gia Định, đỗ Tiến sỹ triều Lý. Nay ta về đến đây thì vận mệnh cáo chung, trời sai ta làm thần của trang này, nên phải lập miếu ở phía trước mộ, lấy sông Thiên Đức làm án, lấy thế đất hình mộc làm chỗ dựa để phụng thờ ta thì được an khang!”. Mọi người trong trang cứ y theo lời đặng lập miếu tôn thờ, tứ thời bát tiết hương khói theo nghi thức không bao giờ dứt./.