LƯU LAN PHƯƠNG
“Hỡi cô thắt lưng bao xanh
Có về làng Mái với anh thì về
Làng Mái có lịch có lề
Có sông tắm mát có nghề làm tranh”
Đó là câu ca xưa của các cụ Làng Đông Hồ (xưa gọi là làng Mái) truyền lại.
Làng Đông Hồ nằm ngay sát bờ sông Đuống, ngày xưa chỉ cách sông một con đê, đó là ý trong câu: "Có sông tắm mát có nghề làm tranh". Ngày nay, do sự bồi lấp của dòng sông nên từ đê ra đến mép nước giờ khá xa. Dân làng Mái, dân nghệ thuật rất trọng lời ăn tiếng nói. Không như nhiều làng quê khác, người dân làng Hồ, nhất là phụ nữ, ăn nói rất lịch lãm, trên dưới thưa gửi rất rõ ràng. Người làng kể rằng từ xưa, rất hiếm khi trong làng có tiếng người mắng chửi nhau. Qua nhiều thế kỷ, 17 dòng họ đã quy tụ về làng, vốn xưa tất cả đều làm tranh. Nhưng đến nay, dân làng Hồ hiện chủ yếu sống bằng nghề làm vàng mã. Hiện nay chỉ còn hai gia đình nghệ nhân Nguyễn Đăng Chế và Nguyễn Hữu Sam cùng con cháu là theo nghề tranh, gìn giữ di sản tranh Đông Hồ.
Một ngày tháng ba nắng vàng óng ả chúng tôi đến thăm làng tranh Đông Hồ - xưa là làng nghề nổi tiếng về tranh dân gian, thuộc xã Song Hồ, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh cách Hà Nội chừng trên 35 km. Làng Đông Hồ (đôi khi dân địa phương chỉ gọi là làng Hồ) nằm trên bờ Nam sông Đuống, cạnh cầu Hồ. Lần này về Làng Hồ chúng tôi đến ngay nhà nghệ nhân Nguyễn Oanh (con dâu Nghệ nhân Nguyễn Hữu Sam).
Chị tên đầy đủ là Nguyễn Thị Oanh - Nghệ nhân nữ duy nhất của dòng tranh làng Hồ. Sinh ra trong gia đình có bốn chị em. Lớn lên trong mùi thơm của hồ làm từ gạo nếp và ngủ ngon trong âm thanh giã nghiền vỏ điệp nên đặc biệt chị mê tranh từ nhỏ. Năm 10 tuổi chị đã biết làm tranh. Thấy chị yêu nghề, cha mẹ cho chị tô màu từ dễ đến khó, màu dễ nhất là màu vàng rồi mới đến các màu khác. Chị là con lớn nên học hết cấp hai đã phải nghỉ học để làm tranh ở hợp tác xã lấy công điểm. Trước đây, một ngày công rất rẻ nhưng mọi người cũng vẫn miệt mài làm nghề của cha ông. Thấy cô gái bé nhỏ xinh đẹp ngoan hiền, lại thông minh khéo léo trong số những cô gái làm ở hợp tác xã. Nghệ nhân Nguyễn Hữu Sam (Lúc đó làm chủ nhiệm) chú ý. Ông quan sát cô gái cần cù miệt mài làm tranh thì rất ưng ý. Mặt khác, tính tình hiền dịu , chịu thương chịu khó của cô được bác chủ nhiệm yêu quý như con gái. Ông bàn với vợ nhất định chấm cô gái này cho anh con trai lớn. Chị tươi cười bộc bạch:
- Tôi và ông xã lấy nhau có yêu nhau đâu. Anh ấy đi công tác làm người nhà nước còn tôi ở nhà.
Chồng chị được cha mẹ ngắm cho cô gái xinh xắn dễ thương thì cũng ưng thuận. Thế là họ thành vợ thành chồng rồi tình yêu mới nảy nở sau hôn nhân. Hàng ngày anh đi làm còn chị ở nhà cùng bố chồng vẫn tiếp tục làm tranh.
Theo lời chị: Tranh Đông Hồ đậm đà chất dân tộc. Tranh được tạo nên từ các chất liệu rất tự nhiên, từ cây cỏ, sản vật của vùng Kinh Bắc. Chất liệu của tranh được làm từ vỏ cây dó, gọi là giấy dó, chủ yếu do vùng Yên Phong, Bắc Ninh cung cấp. Tiếp theo là công đoạn bồi điệp cho giấy dó. Gạo nếp thơm được giã nhuyễn, nấu lên thành hồ trộn với vỏ sò điệp cũng được giã nhuyễn, tạo ra một thứ hồ đặc sánh, sau đó nghệ nhân dùng chổi lá thông bồi điệp lên giấy dó, rồi đem phơi khô. Lúc này gọi là giấy điệp. Màu sắc của tranh, của từng chi tiết trong bức tranh cũng rất phức tạp. Màu đen lấy từ tro của lá tre, màu vàng từ màu cây hoa hòe, màu xanh là màu của lá chàm, màu đỏ của sỏi son…
Ngày nay chị và các con cụ Sam vẫn tiếp nối nghề cha ông. Ngoài các bản khắc cổ điển của cha ông nghệ nhân Nguyễn Thị Oanh còn sáng tạo thêm một số bản khắc lạ nữa. Chị vẽ ra và anh con trai khắc thành mẫu để in tranh. Tuy nghề làm tranh bây giờ không còn được dùng nhiều trong các dịp hội hè lễ tết như xưa nhưng chị vẫn yêu nghề, muốn giữ nghề và muốn bảo tồn dòng tranh dân gian mà chị bỏ cả đời để say mê. Năm 2016 trong chương trình "Âm vang miền quan họ" chị cũng có một bức tranh lớn được tôn vinh.
Hiện tại gia đình chị có anh con trai theo nghề mẹ, anh cũng say mê tranh như ông nội - Nghệ nhân Nguyễn Hữu Sam và biết tạo ra nhiều bản khắc độc đáo. Cô con dâu xinh đẹp của chị cũng phụ mẹ làm tranh, lên khung cho tranh. Làm tranh bây giờ các công đoạn kỹ thuật vẫn như xưa nhưng do sự thay đổi của thị hiếu thẩm mĩ và nhu cầu thưởng thức, tranh Đông Hồ cũng ít được ưa chuộng hơn trước. Vì thế, chất lượng của tranh Đông Hồ ngày càng được chú trọng hơn, đa dạng các thể loại và xuất hiện nhiều các tranh treo tường khổ lớn có khung tranh và mặt kính để bảo vệ tốt hơn, khai thác triệt để các đề tài dân gian quen thuộc như: đám cưới chuột, hứng dừa, đấu vật, hội hè… Bên cạnh đó là các bức tranh khổ nhỏ hoặc đóng thành quyển vở bằng giấy dó với nhiều kích cỡ khác nhau, có bìa là một bức tranh dân gian về dạy học. Ngoài ra còn có các bức điêu khắc dân gian được làm từ gỗ cây thị rất bền dùng để treo tường, để ở gian thờ tự hoặc phòng khách. Các sản phẩm này có thể được du khách mua để làm kỷ niệm tặng bạn bè, người thân sau mỗi chuyến đi du lịch rất hợp lý về giá cả.
Tranh Đông Hồ có nhiều thể loại, từ tranh lịch sử, tranh chúc tụng, tranh thờ tự cho đến tranh sinh hoạt. Mỗi một thể loại phản ánh mỗi khía cạnh khác nhau của cuộc sống dân dã, trong đó ẩn giấu những tâm tư, tình cảm, tư duy và khát vọng của cư dân nông nghiệp vùng đồng bằng Bắc bộ..
Tranh Đông Hồ một thời vang bóng - một điểm đến hấp dẫn hôm nay cho những người muốn tìm về những nét xưa của làng tranh Đông Hồ tấp nập trên bến dưới thuyền. Làng tranh có mai một, nhưng nghề tranh vẫn còn, nét xưa vẫn chấm phá tạo nên khí xuân cổ truyền dân tộc.
Nhìn nét mặt hiền dịu tươi tắn của chị khi được hỏi đến dự định trong tương lai khi biết Thành phố Bắc Ninh đã được công nhận là đô thị loại 1 ngày 24/12/2017. Chị chậm rãi bày tỏ: "Tôi tự hào về quê hương Kinh Bắc, tự hào về dòng tranh dân gian Đông Hồ. Tôi cùng con cháu sẽ tiếp tục làm tranh để giới thiệu với du khách khi đến thăm Bắc Ninh, nhiều du khách nước ngoài đến đây rất thích những bức tranh cổ truyền. Trong tương lai tranh Đông Hồ sẽ còn được tiếp tục lưu truyền vì việc gìn giữ nó không chỉ là bảo tồn nghề truyền thống của gia đình mà đó còn là nghề cổ truyền của làng Mái, Đông Hồ xưa và còn là gìn giữ nét độc đáo của Văn hóa Việt Nam"./.