NGUYỄN HỮU
“Yếm thắm dải đào, mẹ nào con nấy”
Đó là câu thành ngữ dùng để so sánh, ví von khi nói về mối quan hệ tình cảm giữa mẹ và con. Đồng thời, đó cũng là một hình tượng đẹp trong văn học dân gian, khi nói về người phụ nữ Việt Nam. Hình tượng đó đã khiến tôi liên tưởng tới câu chuyện kể về sự tích bà Man Nương.
Ngày xửa ngày xưa, chuyện kể rằng: ở làng Mèn tức là làng Mãn Xá Tây thuộc xã Hà Mãn, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh ngày nay, có hai vợ chồng. Ông là Tu Định. Bà là Ưu Di. Hai ông bà sinh ra được một người con gái đặt tên là Man Nương. Man Nương đẹp nết, đẹp người. Bởi hai ông bà là người rất sùng đạo nên khi Man Nương mới 13 tuổi đã cho xuất gia đi tu theo Thầy học đạo. Thầy Khâu Đà La là người ở Ẩn Độ đã đi theo thuyền của những người lái buôn vòng theo đường biển để sang Việt Nam truyền đạo. Với danh nghĩa là một Pháp sư, một nhà Tu hành, ông Khâu Đà La đã lập am thờ ở cạnh cây đa thuộc làng Non Tiên, tức Chùa Non Nước huyện Tiên Du ngày nay. Ông là người có phép thần thông, có thể hô phong hoán vũ, có thể đứng một chân suốt ngày . . .
Thế rồi một hôm. Ông Khâu Đà La đi hành hương mãi đến tận tối mịt mới về. Bà Man Nương tựa cửa chùa ngồi đợi, và vì đợi quá lâu nên đã ngủ thiếp đi. Khi ông Khâu Đà La quay trở về đến cửa chùa thì đã vô tình bước qua. Và thế là bà Man Nương thụ thai 12 tháng sinh ra một nữ nhi tốt lành. Ông bà Tu Định khi nghe được tin đã vội vàng tìm sang gặng hỏi: “Con tôi đi tu sao lại có thai ?”. Ông Khâu Đà La đã trả lời: “Đó là điềm trời, Con nhà ngươi sau sẽ thành Phật”. Thế rồi, sau đó một thời gian ông Khâu Đà La lại trở về Ấn Độ. Trước khi trở về ông Khâu Đà La đã trao cho bà Man Nương một cây gậy thần gọi là cây Trầm Xích và dặn khi nào hạn hán thì đem cây gậy đó ra cắm xuống đất, nước sẽ phun lên chan hòa, cứu được muôn vạn sinh linh. Và tiếp đó, ông niệm chú cho cây Dung Thụ hay còn gọi là cây Dâu nứt toác ra. Ông gửi người con gái sơ sinh vào đó. Người con gái đó sau đã hóa đá được tôn vinh đưa lên thờ gọi là Đức Thạch Quang. Rồi đúng như lời ông Khâu Đà La đã tiên đoán. Hạn hán kéo dài ba năm liền, cỏ cây chết khô, muôn loài đều bị khát khao. Bà Man Nương chợt nhớ ra cây gậy Thần liền đem ra cắm xuống đất thì quả nhiên, nước đã phun lên chan hòa. Rồi tiếp đó là mưa bão khủng khiếp. Cây Dung Thụ bị gẫy đổ xuống sông Dâu rồi trôi về cửa thành Luy Lâu. Thời bấy giờ có ông Sĩ Nhiếp là người Tầu làm quan Thái Thú được nhà Vua quan Trung Quốc biệt phái sang Việt Nam để bảo hộ dân. Khi được biết có cây Dung Thụ trôi dạt vào khu vực cửa Thành Luy Lâu ông liền nẩy sinh ra ý định là sẽ cho vớt cây Dung Thụ đó lên để làm đền Kính Thiên nhưng Thần đã báo mộng là phải tạc Tứ Pháp. Và thế là bao nhiêu quân quyền đã ra sông. Nhưng lạ sao, dù cho có bao nhiêu quân quyền sức lực cũng không thể nào kéo được cây Dung Thụ lên bờ. Mãi cho đến khi bà Man Nương tình cờ ra sông giặt yếm, nhìn thấy cây Dung Thụ bà lại chợt nghĩ đến con. Bà đã lên tiếng gọi: “Có phải con mẹ thì vào đây!”. Và lạ sao, cây Dung Thụ cứ lừng lững từ từ trôi vào. Bà Man Nương đã dùng dải yếm đào của mình ngoắc vào thân cây rồi kéo tuột lên bờ.
Và thế đấy. Câu chuyện nghe có vẻ hoang đường, rất khó có thể tin, nhưng lại là rất dễ hiểu, vì đây là huyền thoại, tín ngưỡng, là truyền thuyết dân gian nên người ta cũng dễ dàng cảm thông để hướng tới sự tốt đẹp của Thần linh.
Chính vì sức mạnh của Thần linh mà dải yếm của bà Man Nương đã kéo tuột được cây Dung Thụ lên bờ, để rồi sau đó cây Dung Thụ được mười ông họ Đào tạc thành bốn pho Tượng Phật tượng trưng cho mây, mưa, sấm, chớp, gọi chung là Tứ Pháp. Tứ Pháp được tôn thờ ở bốn chùa khác nhau cùng trên một dải bờ sông Dâu. Và cùng chính vì có hệ Tứ Pháp ra đời nên lễ hội Chùa Dâu cũng được mở ra. “Dù ai buôn bán trăm nghề - Tháng tư, ngày Tám nhớ về hội Dâu”. Hội Dâu đã trở thành tiếng gọi thiêng liêng vớí tất cả mọi người. Hội Dâu tưng bừng, náo nhiệt cũng đã là một nguồn cảm hứng mãnh liệt để tôi lao sâu vào việc tìm hiểu sự Tích Man Nương. Bà Man Nương đã trở thành Phật Mẫu được ngày đêm hương khói phụng thờ ở Chùa Mãn Xá hay còn gọi là Chùa Tổ, Nghiêm Phúc Tự. Một ngôi chùa tuy nhỏ nhưng đã được tạo dựng lên ở ngay chính trên mảnh đất của ông bà Tu Định ngày xưa, mà ngày nay người ta vẫn thường gọi là “Hóa gia vi Tự” có một ý nghĩa lịch sử rất sâu xa. Vậy thì sẽ phải viết một cái gì đấy để nói lên được sự thành kính của mình đối với quê hương? Và thế là một ý tưởng mới được nảy sinh. Ý tưởng đó đã làm tôi ngày đêm vật vã không yên.
Thế rồi, cho đến một hôm . . . Khi tôi đang ngồi trầm tư ngay cạnh cửa nhà thì từ phía ngoài cổng có tiếng gọi. Tôi ngó nhìn ra. Thì ra, đó là Cao Việt Thắng. Cao Việt Thắng là bạn thân của tôi, là người cùng làng, cùng đứng trong hội Cựu chiến binh, cũng được làng xã cắt cử lên chùa Dâu làm công tác bảo vệ và nhất là lại cùng có máu văn chương. Bởi vậy việc thường hay đến nhà nhau chơi cũng là lẽ tự nhiên.
Tôi vội đứng lên, đi ra mở cổng, đón bạn vào nhà. Và thực ra thì trong suốt thời gian ngồi giao lưu trò chuyện với nhau không có gì đáng để quan tâm nếu như Cao Việt Thắng không đề cập tới chuyện dải yếm đào của bà Man Nương. Thì ra, Cao Việt Thắng có một người bạn gái xưa cũng học Trường phổ thông cấp ba, nay đã là Phó Giáo sư, Tiến sỹ ngành Luật. Sáng ngày hôm đó người bạn gái đó đã cùng với cha nuôi là nhạc sỹ Phan Huỳnh Điểu về thăm di tích lịch sử văn hóa chùa Dâu và hai người đã gặp nhau, thật là mừng vui vô hạn. Người bạn gái đã tỏ ra đặc biệt quan tâm tới sự tích bà Man Nương cũng như sự tích Tứ Pháp đối với lễ hội chùa Dâu. Và đó cũng chính là lý do đề hai người có một cuộc trao đổi khá thú vị về dải yếm đào của bà Man Nương. Cao Việt Thắng bảo tôi: “Thú thực là em rất khoái cái chi tiết dải yếm đào, mà cái chi tiết đó lại chính là do bạn em khơi gợi ra. Em có ý định là sẽ viết một cái gì đó về dải yếm đào của bà Man Nương mà không biết là bắt đầu từ đâu”.
“À thì ra là vậy. Thì bạn cũng đang là người khơi gợi cho tôi còn gì?”. Tôi thầm nghĩ thế. Và thế là tôi và Cao Việt Thắng đã có sự đồng cảm, chung một mục đích, nhưng lẽ dĩ nhiên là cách nhìn, cách diễn đạt sẽ khác nhau.
Cao Việt Thắng có vẻ rất thích những lời ca dao ví như: “Thân em như dải lụa đào, Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai” hoặc như : “Ước gì sông rộng một gang, bắc cầu dải yếm mời chàng sang chơi?”. Còn tôi, lẽ dĩ nhiên là tôi cũng rất thích nhưng tôi lại muốn đi sâu vào một vấn đề rộng lớn hơn. Đó là bản sắc văn hóa dân tộc: là ma chay cưới xin, là hội hè đình đám mà trong đó rõ nét nhất là hình ảnh về cách ăn mặc của người đời xưa. Đàn ông thì khăn xếp áo dài, đàn bà thì mặc áo mớ bẩy mớ ba rực rỡ sắc màu. Và phải chăng yếm thắm, dải đào của bà Man Nương cũng là như vậy, cũng mang bản sắc văn hóa của người Việt Nam. Và còn hơn thế nữa, yếm thắm dải đào của bà Man Nương còn được sản sinh ra từ một vùng quê chuyên làm nghề trồng dâu nuôi tằm và cấy lúa nước. Trồng dâu là để làm nên gấm vóc lụa là. Cấy lúa là để sinh ra thóc gạo. Thóc gạo, gấm vóc lụa là tiềm năng, làm cho đất nước mạnh giàu và vì thế mới có hội Dâu.
Hội Dâu được mở ra là để cầu mưa, cầu gió, cầu cho quốc thịnh dân an. Hội Dâu là sự kết tinh hài hòa giữa bản sắc văn hóa cùng với đời sống tâm linh. Đã có hàng trăm, hàng nghìn người đó là các Tín đồ, Phật tử, các trai thanh gái lịch từ khắp nơi kéo về để tham gia lễ hội. Người ta rước 11 kiệu Phật ra ngoài Trời, đi tuần nhiễu khắp 12 làng xã trong Tổng Khương. Và ngày nay, tuy hội Dâu không còn được hoành tráng như xưa nữa, nhưng ở đâu đó người ta vẫn có thể hình dung thấy được sự lộng lẫy cờ hoa, đám rước vẫn còn đang tưng bừng rộn rã, cùng với đó là những tiếng trống, tiếng chiêng, tiếng chũm chọe, thanh la, tiếng tù và vẫn còn đang vang vọng đó đây. Và hình như yếm thắm, dải đào của bà Man Nương vẫn còn đang phất phơ bay... Hội Dâu là hội của muôn nhà và sẽ Tồn Vinh mãi mãi./.