ĐỖ HỮU BẢNG
Thời đại đồ đồng được tính đến trong lịch sử từ khi con người phát minh ra cách chế biến nó thông qua sự tác dụng tích cực của lửa. Từ trong bếp lửa để hun nướng, đun nấu con người thời tiền sử đã tìm ra một thứ kim loại dễ bị chảy ra khi bị lửa nung nóng và co cứng lại khi để nguội, đó chính là các mẩu quặng đồng. Ở nước ta đồ đồng hình thành và phát triển cách nay mấy nghìn năm, kể từ di chỉ Phùng Nguyên, sang đến Đồng Đậu, Gò Mun rồi cho tới Đông Sơn… Đó là những thời kỳ ghi dấu cho chúng ta biết tổ tiên chúng ta thoát khỏi thời kỳ đồ đá, biết làm ra những công cụ sản xuất, vũ khí, đồ tế khí… bằng đồng. Những thời kỳ này thực là những bước tiến rất dài và rất cao trong lịch sử dân tộc.
Vẫn biết làng Đại Bái (thuộc xã Đại Bái, huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh) không phải là một địa phương có nghề gò, đúc đồng sớm nhất trên đất nước ta nhưng Đại Bái là một làng quê có nghề làm đồ đồng từ rất lâu đời. Thoạt kỳ thủy làng chuyên làm các đồ đồng gia dụng phục vụ đời sống sinh hoạt của các gia đình như nồi, sanh, chậu, ấm, chén… Ca dao vùng Gia Bình có câu:
"Muốn ăn cơm trắng cá trôi
Thì về làng Bưởi đánh nồi với anh"
Đầu thế kỷ XI một người làng Đại Bái có tên là Nguyễn Công Truyền đã có công tổ chức lại sản xuất nên nghề gò - đúc đồng của làng phát triển lên một bình diện mới. Đến thế kỷ XV, XVI, năm ông Tiến sỹ người làng Đại Bái gồm: Nguyễn Viết Lai, Nguyễn Xuân Nghĩa, Vũ Viết Thái, Phạm Ngọc Thanh, Nguyễn Công Tâm sau khi từ quan các ông đã về làng thúc đẩy việc sản xuất đồng thành các phường có sự chuyên môn hóa như phường này chuyên gò nồi, phường kia chuyên làm mâm, phường khác lại chuyên làm ấm, làm chậu… Có phường chuyên bán và buôn…
Muốn đúc được một sản phẩm bằng đồng, trước tiên người ta phải làm ra một cái khuôn tốt. Khuôn đúc đồng được làm bằng đất phù sa trộn với đất sét, lại pha với tro trấu và bông vụn. Đất đem phơi khô rồi xay nhỏ, sàng, rây thật mịn trộn với gạch chịu lửa đã nghiền nhỏ, rồi hòa trộn đều với nhau, đảo thật kỹ. Đất lót trong khuôn thì dùng đất đã phơi khô, đập vụn rồi xay mịn trộn với giấy bản và bông vụn để khuôn khỏi co giãn. Khi nấu đồng, phải gạn bỏ tạp chất đến khi nào đồng trong trẻo, sánh nhuyễn mới được đổ vào khuôn. Đến lúc đúc, phải nung khuôn cho nóng đều, thì khi đổ đồng vào khuôn đồng mới chảy đều. Nếu khuôn nóng không đều, tức là khuôn sống thì đúc không đạt. Nếu khuôn nung quá già lửa khi đúc bề mặt đồng sẽ không được trơn mịn… Khuôn non nguội thì đồng không chảy hết, không chảy đều đồng sẽ bị đọng lại hoặc bị xô… Nghề đúc đồng hơn nhau ở chỗ biết nhìn nước đồng nấu đến một mức độ nào đấy thì đồng sẽ chảy đều. Chỉ nhìn bằng mắt thường chứ không có dụng cụ gì để thử hoặc đo đếm. Trăm hay không bằng tay quen có nghĩa là như vậy. Việc làm khuôn, làm cốt, cải cốt, tạo mẫu vốn đã rất khó, khi thành phẩm đúc xong lại phải đảm bảo tính năng sử dụng, và đảm bảo về giá trị thẩm mỹ của mỗi mặt hàng. Nghĩa là đồ làm ra phải nuột nà, óng chuốt, không lẫn giọt đồng sống, không bị rỗ mặt, đồng sắc và đồng khí mới được xem như đạt chất lượng và mới gây được tín nhiệm.
Theo một số người có tay nghề đúc đồng giỏi cho biết, có hai thứ trong nghề đúc đồng khó nhất, đó là đúc tượng và đúc chuông. Đúc tượng yêu cầu người làm khuôn phải có bề dày kinh nghiệm, có tài năng thật sự thì mới có tượng đẹp, vì tượng đòi hỏi phải thể hiện được cái hồn, cốt, thần thái của từng nhân vật, mà mỗi nhân vật lại có diện mạo, hình tướng khác nhau. Còn như đúc chuông thì không phải người thợ đúc nào cũng đúc được, hoặc chuông nào cũng gọi là chuông được! Muốn đúc được một quả chuông kêu hay người thợ tay phải có nghề cao, chuyên môn giỏi mới dám đúc. Phải biết tính toán sao cho độ dày, mỏng thật chính xác kết hợp với hoa văn trang trí của toàn thể chiếc chuông, bởi đó là những cung bậc, nên cần biết xử lý chỗ nào cần dầy, chỗ nào cần mỏng, tính toán sao cho thật chặt chẽ chính xác từng phần của chiếc chuông. Mỗi quả chuông phần dầy mỏng có ba phần không được giống nhau, đó là ở tầng dưới cùng phải có độ dầy, phần giữa từ phần vú chuông đến phần vai chuông phải mỏng hơn. Và phần từ vai chuông đến đến hầu chuông (tức là chỗ để treo chuông) lại phải dầy hơn cả. Từng dưới cùng, còn gọi là lợi chậu hay miệng chuông thì phải dầy, nhưng độ loe, tức là đường kính bao nhiêu thì tương ứng với độ dầy phải bao nhiêu. Khoảng giữa từ vú chuông (tức vị trí để đánh chuông) phải mỏng ra sao? Khoảng cách từ vai chuông đến hầu chuông (còn gọi là móc treo chuông) lại phải dầy lên như thế nào? Đòi hỏi người thợ phải biết tính toán thật kỹ lưỡng sao cho đúng tỷ lệ mới đảm bảo có được thành phẩm hoàn hảo. Nếu độ dầy mỏng không có sự thay đổi hợp lý, khi đánh lên tiếng chuông sẽ không vang ngân. Đó là còn chưa tính đến việc pha chế cần phải ra sao. Người nghệ nhân đúc đồng giỏi chỉ cần nghe tiếng chuông kêu là biết được tài năng của nhau như thế nào. Chuông tốt thì tiếng chuông kêu ngân nga, trong trẻo… Nếu chuông không đạt yêu cầu thì tiếng kêu gắt, nhỏ, cụt… Thành chuông mỏng quá thì tiếng kêu “oàng”. Đồng lẫn “giọt sống” thì tiếng kêu tạp, rè, không trong.
Ngoài những mặt hàng như tượng thờ, đỉnh, chân đèn, lư hương… thì những sản phẩm trống, chuông là rất những vật dụng hết sức quan trọng trong việc phục vụ lễ hội. Trong lễ hội của người Việt, nếu tiếng chuông (hoặc chiêng) thuộc phần lễ, thì tiếng trống thuộc phần hội. Đôi khi cả chiêng và trống cùng được thỉnh lên, đánh lên trong phần lễ, đó là những tiếng: tùng bi ly… tùng bi ly… (tùng là tiếng trống, bi ly là tiếng chuông (hoặc chiêng). Lễ là để tưởng nhớ, không thể thiếu vắng tiếng chuông (chiêng). Khi tiếng chuông (hoặc chiêng) thỉnh lên làm cho quá khứ như sống lại. Trong khi đó phần hội không thể thiếu vắng tiếng trống, tiếng trống đánh thức con người đương đại trở về ký ức xa xưa, về cội nguồn của mình… Ngoài ra tiếng trống có tác dụng kêu gọi, giục giã, tập hợp, kích động, hối thúc… Cùng là tiếng chuông, nhưng đến với những buổi lễ của những người theo đạo Thiên Chúa thì tiếng chuông nhà thờ mang nhiều ý nghĩa khác nhau:
"Tiếng chuông nhắc nhở giáo sỹ
Tiếng chuông tập hợp giáo dân
Tiếng chuông tô điểm ngày lễ
Tiếng chuông khóc người qua đời"
Và như vậy âm thanh của chuông trong những buổi lễ mang tính linh thiêng chứ không chỉ đơn giản như những tiếng kẻng kêu gọi nhắc nhở gấp gáp, vội vã và cụt lủn. Chính vì thế nên chuông đúc phải đảm bảo những yêu cầu khắt khe của kỹ thuật.
Ngoài những sản phẩm đòi hỏi kỹ thuật, mỹ thuật cao như nêu trên, người làng Đại Bái nhiều gia đình còn sản xuất các mặt hàng thờ tự như đài thờ, mâm bồng, chân đèn, chân nến, hạc thờ, lư hương, đèn, đỉnh đồng, hoành phi, câu đối, hình tượng các vật linh: long, ly, qui, phượng, sư tử, mặt hổ phù, thạp đồng, trống đồng… Đặc biệt hơn cả là tượng các vị Phật, tượng các vị Thánh mẫu và tượng chân dung các danh nhân của quê hương, đất nước... Không chỉ dừng lại là những sản phẩm đồng đúc ra sao cho chau chuốt trơn nhẵn, người ta còn khảm, cẩn các chi tiết hoa văn cầu kỳ, tinh xảo trang trí lên bề mặt các sản phẩm cho thêm phần sinh động, đẹp mắt. Là một làng nghề giàu có từ lâu đời, từ xưa người làng Đại Bái ngoài việc đồng áng trồng trọt, chăn nuôi mọi gia đình còn chuyên chỉ việc làm đồ đồng. Việc canh nông nhiều gia đình phải thuê mướn người các làng khác đến làm, để chỉ chuyên vào việc sản xuất đồ đồng. Làng Đại Bái hiện nay nghề đúc, gò đồng ngày càng phát triển mạnh mẽ, ngoài việc sản xuất đồ đồng gia dụng truyền thống, đồ thờ tự, đồ mỹ nghệ… còn có nhiều gia đình sản xuất một số mặt hàng kim khí, các chi tiết phụ kiện máy móc bằng đồng, chân nan hoa xe đạp, các chi tiết trong cầu dao điện... tạo công ăn việc làm cho hàng trăm, hàng nghìn người, nhìn chung người lao động tại làng Đại Bái có thu nhập khá ổn định, trong đó có không ít người có mức thu nhập khá cao.
Đại Bái từ xa xưa đã là một trong những làng có khá nhiều nghệ nhân đúc đồng, gò đồng tài hoa. Từ thời Lê (thế kỷ XV) làng Đại Bái đã có nhiều người được chiêu mộ ra kinh đô để đúc tiền và đúc đồ thờ tự cho triều đình, góp phần đáng kể để tạo nên một kinh đô Thăng Long ngàn năm văn hiến. Là một “xã” trong phường Ngũ Xã ở Hà Nội ngày nay. Sang đến thời Nguyễn cũng có nhiều nghệ nhân giỏi được triều đình trưng tập vào kinh đô Huế để đúc các đồ tế lễ, chuông, khánh, vạc, đỉnh cũng như các loại vũ khí cho quân đội, từ đó hình thành làng đúc đồng Xuân Dương ở Huế. Trong đại nội Huế, hiện nay vẫn còn 10 chiếc vạc đồng lớn đúc vào thế kỷ XVII, 9 chiêc đỉnh đồng lớn đúc dưới triều vua Minh Mạng vào những năm 1835 – 1837. Những sản phẩm này thể hiện bàn tay tài khéo của các nghệ nhân đúc đồng của cố đô Huế. Chắc chắn trong số những nghệ nhân tài hoa ấy có nhiều người gốc gác ở Đại Bái - Gia Bình - Bắc Ninh.
Trong hệ thống hiện vật của Bảo tàng tỉnh Bắc Ninh hiện nay, cũng như trong nhiều bộ sưu tập cổ vật cá nhân của một số anh chị em Hội viên hội cổ vật Kinh Bắc hiện đang lưu giữ nhiều đồ thờ tự chất liệu đồng như: Đỉnh, hạc, chân đèn, trống, chuông, khánh… có giá trị nghệ thuật cao được sản xuất từ những thế kỷ trước có xuất xứ từ làng Đại Bái./.