Trang chủ NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI

TỤC "TỨ CỬU HẦU THÁNH" LÀNG ĐÚC ĐỒNG QUẢNG BỐ
15:40 | 21/12/2020

Làng Quảng Bố có tên Nôm là làng Vó, xưa là xã “đàn anh” của tổng Quảng Bố, nay là đơn vị thôn của xã Quảng Phú, huyện Lương Tài. Làng có diện tích dân cư là 6.000 m2, diện tích canh tác là 156 ha, với trên 1.086  hộ, gần 4.100 nhân khẩu. Làng có thiết chế văn hóa truyền thống hoàn chỉnh, gồm đình thờ thành hoàng Lã Nam Để Đế đại vương, đình thờ Tổ nghề đồng Nguyễn Công Nghệ, chùa Bảo Thái, lăng mộ Tổ nghề. Năm 1947 trong kháng chiến chống thực dân Pháp, các công trình kiến trúc tiêu biểu trên đều bị tiêu hủy. Sau này dân làng dựng lại ngôi đình thờ chung Thành hoàng, Tổ nghề và chùa làng. Chùa kiến trúc chữ Đinh, kết cấu vì kèo đơn giản, có bảo vật là quả chuông đúc năm Thành Thái thứ 11 (1899). Đình gồm 3 gian 2 dĩ Tiền đường, 2 gian Hậu cung hướng Đông, 4 mái đao cong. Các di vật lưu giữ tại đình khá phong phú, như: Tượng đồng Tổ sư, Bộ bát bửu đồng, Hương án, Đỉnh đồng, Bia đá, Thần tích, Sắc phong… Lăng mộ và đình thờ Tổ sư nghề đồng đã được Nhà nước xếp hạng là Lịch sử văn hóa năm 1992.

Thời xưa làng Vó có 26 dòng họ cùng quần tụ sinh sống, ngoài làm ruộng là làm nghề đồng, sản phẩm gồm chân đèn, cóc lẫy (bản lề hòm tủ), khóa, ke hòm, nhạc đồng, chuông đồng… Những tập quán tiêu biểu là tục thi làm cỗ do hai giáp Đông và Đoài đảm nhiệm, thi cày bừa giỏi và trưng bày sản phẩm nghề đồng. Tổ sư nghề đồng có phần mộ ở khu đồng Bãi Rắn phía Tây làng, diện tích 5.000 m2. Ngày giỗ Tổ nghề 23 tháng Tám (âm lịch) là ngày hội lớn của làng. Con em đi làm ăn xa đều thu xếp thời gian về quê lễ Tổ. Trước đây dân làng xây lăng với kiến trúc nhỏ. Năm 1980 dân làng xây lại lăng kiến trúc quy mô lớn hơn, kiểu chồng diêm tám mái, có tướng bao quanh, cửa lăng hướng Đông Bắc, 4 góc có cột đỡ mái tạo thành hiên nhỏ chạy xung quanh. Trong lăng có bia đá, bát hương niên đại thời Nguyễn. Năm 2015, hội đồng niên 1967 đã công đức tu sửa lăng quy mô bề thế hơn. Phía trước lăng có đôi câu đối:

Giáo dân vi khí vi lô dĩ nghiệp chân truyền tài xuất loại

Đại đức tiên tri tiên giác sinh tài hữu đạo huệ vô tư.

Nghĩa là:

Dạy dân biết làm đồ, biết làm lò dựng nghề nghiệp (Ngài) thật là tài giỏi hơn người

Đức lớn làm cho dân hiểu biết để làm ra của cải nhưng (Ngài) rất an nhiên.

Ngày nay làng Vó có nền kinh tế phát triển vượt bậc, với 67 Công ty, 11 Hợp tác xã sản xuất hàng hóa, trong đó sản phẩm đã mở rộng, từ sản phẩm đồ đồng truyền thống, nay có thêm cả sản phẩm kim loại, nhựa… Mỗi ngày làng nghề tạo việc làm cho trên nghìn lao động trong vùng, thiết thực xóa nghèo và làm giàu cho quê hương. Thu nhập bình quân đạt khoảng 70 triệu đồng/người/năm. Càng làm ăn tấn tới, người làng Vó càng nhớ về Thánh tổ, hướng về Thánh tổ, người đã có công truyền nghề cho dân làng để có những thành tựu phát triển kinh tế hôm nay.

Làng Vó hiện nay còn bảo lưu được nhiều tập tục đẹp, trong đó có tục “Tứ cửu hầu thánh”, nghĩa là những người tuổi 49 phải ra phục vụ chốn đình chung suốt một năm để Tết âm lịch tới làm lễ trình giầu “lên lão” tuổi năm mươi. Đây là thời điểm có dấu ấn đặc biệt về lứa tuổi ở làng Vó. Những người cùng lứa tuổi tập hợp lại thành Hội đồng niên. Hội đồng niên ở làng Vó quy tụ không chỉ nam nhân, mà còn quy tụ cả nữ nhân, gồm các nàng dâu lấy chồng về làng và các bà cô lấy chồng thiên hạ. Người có thân phụ tuổi cao hơn được coi là “Anh Cả” đứng đầu Hội. Trong năm hầu Thánh các tuần sóc vọng, vào các dịp trọng lễ xuân thu nhị kì, ngày đình đám mùng 9 tháng Tư và ngày giỗ Tổ nghề 23 tháng Tám đồng niên nam phải lo việc tế thánh. Trước kì tế mùng 9 tháng Tư âm lịch, các ông tứ cử nam phải lo học tế hàng tuần liền, do các cụ cao tuổi chỉ dẫn. Hội đồng niên cử ra hai người đủ tiêu chuẩn của làng làm “quan đám”, hay còn gọi là “chủ tế”. Nhờ lệ này mà đảm bảo tất cả các cụ ông trên 50 tuổi ở làng Võ đều biết tế thánh.

Những năm gần đây, ngoài hoàn thành tốt việc hầu thánh thì các hội đồng niên được tuổi tứ cửu đều phấn đấu có một dấu ấn riêng kỉ niệm. Đó là những công trình khá tiêu biểu trong hợp thành Di tích Lịch sử văn hóa. Đồng niên 1967 công đức tu sửa Lăng Tổ nghề; đồng niên 1969 công đức ngôi Tiền Tế ở Lăng Tổ nghề với giá trị xây lắp trên 1 tỉ đồng; đồng niên 1971 công đức Tam quan và tường bao đình làng với giá trị xây lắp 560 triệu đồng; đồng niên 1972 công đức hạng mục dải vũ giá trị xây lắp 280 triệu đồng. Các công trình xây dựng công đức này đều xin phép Ban quản lí di tích, quá trình xây dựng có sự giám sát của chính quyền và Ban khánh tiết đình. Khi hoàn thành đều có lễ bàn giao công trình cho Ban quản lý di tích. Dân làng đánh giá cao sự công đức của các lứa tuổi “Tứ cửu hầu thánh” những năm qua, qua lời thơ ca ngợi:

Tiếng thơm công đức mãi còn

Lưu truyền in dấu vàng son tấm lòng./.

                                                                                                                                                                                                                                                          PHẠM THUẬN THÀNH