Trang chủ TÁC GIẢ - TÁC PHẨM

"GỬI VỀ NƠI SÓNG VỖ - ĐẪM HỒN THƠ CỦA KIẾN TRÚC SƯ HUY PHÁCH
09:32 | 30/07/2025

Vẫn phía một dòng sông “nằm nghiêng nghiêng” ấy, mà gọi nhớ đến ngàn đời. “Anh đưa em về sông Đuống”, còn để nhỡ hẹn đến bao giờ nữa. Còn để thổn thức đến bao giờ cho nguôi? Dồn lại tất cả trong hy vọng, rồi là kỳ vọng, rồi sang hiếu vọng của vô vàn cung bậc truyền đời, của người ở quê đến kẻ xa quê, lại là một miền nhớ da diết, một niềm yêu mãnh liệt xương tuỷ. “Ai về bên kia sông Đuống”? Cho ta gửi đâu chỉ “tấm the đen”, mà còn bao cái không nói ra, gọi ra bằng tên được! Chỉ biết đó là: Tình yêu! Vâng, một tình yêu không kìm được. Tôi lắng nghe bắt đầu từ những con chữ, dòng chữ, trang sách… như người tin trao gửi cho tôi cái sức của tình yêu nồng ấm. Và, như một bắt đầu từ ngọn nguồn suối chảy, vời trông con nước mới sa. Từ ban sớm sương tơ trong trẻo sợi nắng vương hồng, đan kết một bình minh. Từ đương đông buổi chợ “bơ bải hồn quê”, đến “chiều hôm nắng nhạt”, vẫn một mực “nghĩa xóm tình làng”, vẫn một “tinh cha huyết mẹ”… xao xuyến sao quên. Tôi như bị thôi miên, trước những con chữ, gói trăm chiều, gói ngàn điều của kiến trúc sư xứ Kinh Bắc, đẫm hồn thơ: Huy Phách!

Với Bắc Ninh - Hồn phố hồn nhà, dày dặn 362 trang, khổ 19x19, bìa cứng, giấy đẹp, dành 282 trang, cho tản mạn kiến trúc, mà anh lao tâm khổ tứ, suốt một đời người, thành danh lập nghiệp. Tôi nhận ra ở đó, một tầm vóc của người có tâm, có học thức rộng, trong kiến trúc, kế thừa và sáng tạo, triết lý và thuyết phục. Hãy nhìn vào vẻ đẹp thanh nhã của một đô thị trẻ Bắc Ninh, từ tái lập đến giờ, ngót 30 năm, đậm nét một đóng góp của KTS Huy Phách! Tôi nghe trong những con phố, những hàng cây, những con đường, những toà nhà công sở, hay khu vui chơi, cư phố… rõ những thầm thì. Còn kia một Ngã Sáu! Mẹ ơi sóng vỗ Lục Đầu! Một vẻ đẹp hoành tráng của tượng đài hoa sen, giầu chất nhân văn, trong một hình tượng nghệ thuật kiến trúc trường tồn, vinh danh giữa cao xanh muôn thuở, thấm đượm tinh hoa văn hoá đất Kinh Bắc khoa bảng, bút nghiên, một tín ngưỡng phương Đông đầy triết lý… thắp sáng giữa đời! 

Phải chăng trước một kiến thức đồ sộ, một niềm say mê trong sáng tạo kiến trúc và một sức đọc, mà nghiệm ra những bản vẽ, giữa cuộc sống đầy thách thức. Nói sao hết trước ngày, mỗi ngày, dạo trên từng con phố, vẻ đẹp như lại ùa về, như nói về những công việc thầm lặng, mà yêu, mà thầm cảm ơn những bộ óc sáng tạo, trân - quý - một - con - người, mà tâm hồn luôn trải cho vẻ đẹp tổng hoà. Tôi nhìn từ trang viết, đến ngoài đời nắng, mưa và gió nổi!

Trầm vọng nơi sóng vỗ, nơi luỹ tre làng thân thuộc. Nơi mái đình cong hình lưỡi liềm, hiền lành đến thế, còn ví như mảnh trăng treo hao khuyết đợi chờ. Ngọn tre cong hay bông lúa uốn câu, mang một hình hài đồng dạng. Một dáng eo sao mà hiền lành, cho ta nhớ cả một đời người thánh thiện và còn bao nữa, hỡi dáng duyên ơi! Kia, một con đường nhỏ, vắt lưng đồi, hay là hoa văn trên y phục, ngày em mơ hội lùng tùng, đu quay, ném còn… nẻo núi. Dải tượng thắt ngang lưng, váy yếm hội làng náo nức một vùng quê… Ở đây, Thơ và Kiến trúc, như nhập làm một trong hợp lưu đáng nể, nhất quán, trong một con người!.

Gửi về nơi sóng vỗ, nghe miên man trong một màu xanh đến nồng nàn quê kiểng, suốt một hành trình dài, hình chữ S mà thổn thức. Nơi chân tre làng quê ngỡ như yên ả, mà ủ giữ vô vàn những chuyện người, chuyện đời, ngàn trang giấy luận, như nước trong nguồn chảy ra, như đôn núi cho cao một tầm nhìn, chứa chan khát vọng đóng góp và cống hiến, nhìn thấu giếng khơi, chạm mây trời, gần gũi, trên cung trăng kia cũng có cây đa thằng Cuội.

Ta lạc vào thành phố dòng thời gian, là kia Thành cổ, Phố cổ, Thành phố đèn dầu… một thuở dài, giữ không được tắt, để một ngày thắp bừng ngọn đuốc, trong Thành phố hồi sinh, sức sống Thành phố trẻ, “Hoa đã nở trên mặt người mặt phố. Ngọn gió nào không hương sữa hương lan”. Và khi “Đi trong thành phố như đi trong mơ, Chiều vàng ươm như sương giăng tơ”, lại rặt những thanh bằng, sao mà khéo viết. Lối thơ tứ tự, khi viết về một Bắc Ninh thành cổ, một địa danh kiến trúc phên giậu mẫu mực, ùa về, hoá lộng lẫy hôm nay: “Khung trời tơ nhện một dải sông Cấu/ Muôn năm thành cổ mình còn có nhau”, không phải ngẫu nhiên dày thêm trang viết hào sảng: Khát vọng thành phố trẻ, Bắc Ninh thành phố trái tim ta, Thành phố mùa xoan nở, Bắc Ninh luôn trong tâm thức của Người, Phút giao thừa nghe phố hát giao duyên… để rồi “Câu nhớ phố chờ/ Câu thương phố đợi”, còn mênh mang đến nao lòng, trong hương vị ngọt ngào tha thiết của chữ nghĩa “Phố trẻ mãi trên đất ngàn năm tuổi” mỡ mầu. Có biết một - con - người vẫn/ như/ đêm/ ngày … Lặng lẽ trong Lặng lẽ, sành sỏi và gắng gỏi “Bên thềm gom hạt nắng cho thơ”! Còn với Hồn phố ngốn nhiều con chữ, với những câu thơ dài, thả ra cho hả, mang bóng dáng của một công trình kiến trúc, kể sao cho hết! Và, không thể bỏ qua Phía cây vòm lá: “Cứ thế mà phổng phao/ Cứ thế mà lao xao” hữu duyên lặn vào trong “Tiếng chim xanh vòm lá”.

Hãy cùng về nơi sóng vỗ, vốn quen từ buổi ấu, ao làng cua cá. Về với thườn thượt đói no trăng tán trăng quầng… Về với thời gian, một thời xa quê biền biệt trăm chiều bật khóc. Về đi mà trả nợ quê mình nơi lạc thổ “Chờ nhau tóc bạc lá rụng sân đình” tức tưởi và xót. “Hỏi đâu quai thao? Hỏi ô lục soạn? Hỡi Chợ Nhớn chợ Giầu, làng Lim làng Mái/ Vẫn đôi bờ Đuống, vẫn dải sông Cầu, sao chẳng thấy đâu”? Để “Ta nhớ giọng kim ta thèm giọng thổ, 36 thứ chim, loan phượng ăn xoài, tít tắp trời xa”. Hãy về với Ngày xưa: “Cái Tôm cái Tép đi đưa bà Còng”. Về với “Cánh diều nâng mũi đao cong mái chùa”, hay đến lạ lùng trong lối ví von. Và “Cái cày có lưỡi cái bừa có răng”, thì đố ai cãi được, “Càng dày cái nghĩa càng sâu cái tình”, trong suốt những tháng ngày khốn nhọc! Sao cái Ngày xưa ấy lại hương đến thế, lại hạt gọi mùa! Về mà Neo đậu hồn quê: “Nhà gianh, ngõ gió, tre ngà thân thuộc”. Nơi “Chanh chua muối mặn, ao đình sen ngát”. Về nơi “Làng khiêm nhọc với mưa với nắng/ Ngọn đèn khuya đánh vật những trang…bài”. Về với “Nén nhang con thắp/ khép một vòng nắng mưa/ Vái Mẹ! Nước mắt khôn cầm”! Vẫn một Hồn quê, Bãi dâu ruộng lúa, tắm nắng gội sương, ta giật mình, khi chạm câu “Trông cây lúa tốt mà thương đất cằn”, mà nhận ra sức nặng của chữ! Hay “Cỗi cằn tre cũng nở hoa/ Cổng làng có cánh cây đa có thần”. Rồi “Bao nhiêu lời lẽ văn hoa/ Chắng bằng câu nói thật thà nhà quê”, thần thái. Để rồi “Lắng nghe câu hát mà ra hồn người”. Để rồi ta nhận ra vì Sao em cứ hát ngân như tiếng đàn, cám dỗ của ý tình, ngoa ngoắt mà buộc vào thi vị “Xui cho quả rọi cũng hình trái tim” kỳ thú.

Và, tôi dừng rất lâu với những trang viết về mẹ, như một đề tài, nặng lòng khôn tả. Tắm cho Mẹ nào hay như một truyện thơ. Vế sáu bẻ ra, vế tám tan như nước mắt chảy ngầm trong suy tưởng. Đi suốt một đời tảo tần, lặn lội… Chỗ ướt mẹ nằm chỗ ráo dành con, bay ra từ những vần ca dao, ngọt ngào chứa chan tình mẫu tử. “Cỗi cằn gốc gạo gốc đa/ Bao nhiêu cái nõn cái nà phần con”, đến câu “Lưng còng tắm cái héo hon”, thì chỉ là Huy Phách mới nói được cái hay đến cạn bình, con chữ mộc mà đắc đạo!

Em ơi! 

Ai mang tít tắp mà thương! 

Là Khi vợ vắng nhà lại một phiền toái, vì “Đã quen sống giữa yêu thương”, trước sự nuông chiều của bà Tú, bà Cử, còn trong thơ xưa “Nuôi đủ năm con với một chồng”. Giờ sểnh vợ một chút đã “Bếp hiu hắt bếp nhà lôi thôi nhà”. Thật bẽ bàng cho ai trong hoàn cảnh ấy. Mới hay trong Thương vợ, với bốn dòng lục bát “Cho chồng con rộng cánh bay/ Thương em mái tóc hao gầy gió sương”. Chao ôi, sợi tóc vốn mảnh mai rồi lại còn teo tóp hao gầy nữa, thì lối tả đến thế là cùng. Tôi yêu và trọng những câu thơ giầu hình ảnh ấy, đầy hàm ơn ấy và cái nhìn luôn tươi tắn như vẹn nguyên trong Cây táo nở hoa, năm chữ, nặng nghĩa nặng tình “Lơ thơ màu tóc mây/ …Em còn giấu ta/ Những ngày xa vắng ấy”, mà nể trọng!

Còn nhiều lắm những nỗi niềm trong Bát canh rau, ẩn kín trong Hoa lạc, trong Hái những vì sao, sáng bừng đêm đêm, trong Vừng ơi! “Tháng ba về mở cửa”. Còn là Ngày xuân: “Lộc biếc còn chờ xuân gõ cửa/ Thơ phú đôi câu đã gọi vần”. Còn là Mắt nói, một bài thơ tứ lạ lời của dao cau/ lời của cánh diều đến lời giếng khơi thì kín, sâu, tỏ, rõ nhường nào, tài tình trong lập chữ biết bao ý toả. Để ta nhận ra trong Gửi: “Má lúm đồng tiền/ Để anh mắc nợ/ Ơ kìa chợ phiên/ Thôi đành phiên chợ” muôn nỗi nhọc nhằn, đương đông buổi chợ “Xuân sang phơ phất nhịp yếm đào”!

Còn nhiều lắm lắm những trang thơ, lấp lánh, khuôn vàng, chữ ngọc, nào là Tự trào hay Bắt đầu từ Ất Tỵ rồi Tuổi Tám mươi ký ức chú lính già… Những tâm tư tuổi tác, thì cũng là lẽ đương nhiên, của một người từng trải như anh: Học đường - Đánh giặc - Lập nghiệp viên mãn đắm say, giờ hưu trí, với phố phường, với vui vầy gia đình, con, cháu có cả bầu bạn thơ văn nặng nghiệp, trước vùng đất và con người!

Tập thơ chỉn chu, cẩn trọng từng ngôn từ, ắp đầy chữ và nghĩa, hình và tượng, truyền thống mà luôn mới, trong từng hình ảnh, con chữ, trong từng lối thơ óng chuốt. Huy Phách với anh gửi lòng ưu tư muôn nỗi, giữa hằng đêm trăn trở. Gửi về nơi sóng vỗ như một ân tình, như một sự tri ân, còn như một sự trả nợ. Bài thơ nào tôi cũng yêu, cũng say. Dòng thơ nào cũng mới, trong câu từ, còn trong cấu tứ. Trong sáng tạo ngôn ngữ không ngừng! Là sự gọn gàng, chắc nịch, trong lối thơ 4, 5 chữ thuần phác. Lối thơ 8 chữ một dòng, bốn câu một khổ ví như thành quách. Sự thành thạo trong kiến trúc chặt chẽ lại nhập vào đây trong cấu trúc mới của ngôn ngữ thơ ca, bề bộn nội dung không bộn bề con chữ.

Vẫn dòng sông Đuống “nằm nghiêng nghiêng” một thuở thi ca, ta còn biết “những con Đèo chạy dọc”, đến “những con đường chạy thẳng vào tim”, còn biết kiến trúc một “Dáng đứng Việt Nam tạc vào thế kỷ”! Cảm ơn anh đã tin mà trao cho, đọc từng trang, trên bản thảo và xin được phần nào chia sẻ, Gửi về nơi sóng vỗ, một niềm riêng, ví như bài Giọt nước, trong thơ anh: “Nhỏ nhoi, trong vắt, mát lành, róc rách… biết lặng lẽ, biết dệt sợi mưa rơi, Cho Đất nước nghìn năm trôi qua cơn khát”… thì lớn lao đến nhường nào, trong hình tượng, đầy sức khái quát và chinh phục bạn đọc, mà yêu!

Mẫn tiệp! 

Một thơ Huy Phách!

                                                                                                                                                                                                                                                                                    NGUYỄN NHƯ HẠO