Trang chủ

DI TÍCH, LỄ HỘI KINH DƯƠNG VƯƠNG VÀ VẤN ĐỀ "ĐẤT TỔ"
15:26 | 30/11/2018

Khu di tích lăng Dương Vương và đền thờ Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân - Âu Cơ thôn Á Lữ, xã Đại Đồng Thành, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh là di tích lịch sử văn hóa có giá trị và ý nghĩa vô cùng to lớn, được Nhà nước công nhận (xếp hạng) năm 1988.

Khu di tích trên gồm: Đền thờ Kinh Dương Vương ở phía trong đê xóm Bi, làng Á Lữ. Mãi đến thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược  ngôi đền này mới bị tàn phá. Sau đó dân làng Á Lữ dần dần ra cư trú hết khu đất đền, nên địa phương phải quyết định rời chuyển các đồ thờ tự còn lại vào Văn chỉ của làng và thờ phụng Kinh Dương Vương ở đấy từ đó đến nay.

Khu lăng Kinh Dương Vương được xây dựng ở phía ngoài bờ đê sông Đuống. Vốn xưa khu lăng khá sầm uất khang trang. Nhưng do nhiều yếu tố thiên tai địch họa (làng nằm ngoài đê nên năm nào cũng bị chí ít một lần ngập lụt), lăng thường xuyên phải tu bổ sửa chữa, lần tu bổ lớn (có lẽ là sau cùng – tính đến nay) là vào năm Minh Mệnh thứ 21 (1840). Sau đó cũng chung số phận như ngôi đền, lăng Kinh Dương Vương đã bị tàn phá cả cảnh quan môi trường và các công trình xây dựng (năm 1949).

Thực trạng của khu di tích lăng Kinh Dương Vương hiện nay là công trình mới được tu bổ xây dựng lại trên đất cũ nền xưa nhưng không được như bộ mặt di tích sau lần tu bổ đời Minh Mệnh. Đây là yêu cầu đặt ra cho hôm nay có thêm tư liệu phục vụ cho việc tu bổ tôn tạo công trình di tích lịch sử có giá trị và ý nghĩa vô cùng to lớn này.

Từ đó đến nay di tích lịch sử văn hóa này ngày càng được nhiều người quan tâm hơn, nhưng không ít người còn chưa tỏ tường về ý nghĩa lịch sử sâu sắc và nguồn gốc của việc thờ phụng ở di tích này dẫn đến sự so sánh đối với khu di tích Đền Hùng tỉnh Phú Thọ. Họ chưa hiểu tại sao: Kinh Dương Vương là “ông nội” của vua Hùng, mà tại sao nơi thờ phụng ông ở đây không được mọi người xem như “Đất Tổ” của người Việt Nam từ xa xưa tới nay, mà Đền Hùng ở Phú Thọ mới là “Đất Tổ” hay “Đền thờ tổ”…

Như người ta đã biết: Thời đại bắt đầu dựng nước và giữ nước của dân tộc ta tính từ thời kỳ đất nước trong buổi bình minh của lịch sử - đến những năm đầu công nguyên với cuộc khởi nghĩa lớn của Hai Bà Trưng (năm 40 sau công nguyên). Nếu chỉ tính từ Kinh Dương Vương thì chúng ta thấy: Kinh Dương Vương (tên húy là Lộc Tục) lấy con gái Long Thần là Động Đình Quản, sinh ra Lạc Long Quân. Sau đó Lạc Long Quân (tức Hùng Hiền Vương - húy là Sùng Lãm) lấy bà Âu Cơ (hai ông bà được xem là tổ của Bách Việt ta). Lạc Long Quân và Âu Cơ sinh ra trăm người con (theo truyền thuyết) Hùng Đoàn là con cả, kể đến là các đời vua Hùng (tất cả là 18 đời).

Cũng theo truyền thuyết: Sau đó 50 người con theo mẹ Âu Cơ lên rừng, còn 50 người theo cha xuống vùng biển làm ăn sinh cơ lập nghiệp.

Theo trên thì: Kinh Dương Vương (xét về thứ gia đình, gia tộc) là “Ông Nội” của các vua Hùng.

Nhưng nhìn từ góc độ “Nguồn gốc của sự thờ phụng” thì chúng ta thấy việc thờ phụng ở Đền Hùng (Phú Thọ) được xem là “Đất Tổ” là gắn với hai quan niệm: quan niệm thứ nhất là từ “Nguyên lý mẹ”, “Thờ Mẫu” việc thờ phụng ở Đền Hùng khởi thủy từ việc thờ “Mẹ” mang 50 người con lên rừng sinh cơ lập nghiệp; quan điểm thứ hai từ việc nghiên cứu sự phát triển của loài người nói chung và của người Việt cổ nói riêng, là từ núi cao đến trung du đồng bằng rồi đến miền biển. Sự ra đời của các Kinh đô – thành cổ nước ta cũng thể hiện rõ điều này: Từ kinh đô Nghĩa Lĩnh (Vĩnh Phú) đến Cổ Loa (Đông Anh) rồi mới đến Luy Lâu (Kinh Bắc).

*      *

*

Nước Việt Nam ta bước vào thời đại đồ đồng cách đây khoảng bốn, năm nghìn năm. Với thời đại đồng thau phát triển, chúng ta bước vào thời kỳ Văn Lang – thời kỳ Hùng Vương của lịch sử Việt Nam. Theo sử cũ và truyền thuyết - bấy giờ có khoảng 15 bộ lạc Lạc Việt sinh sống, chủ yếu ở miền trung du và đồng bằng châu thổ. Hàng chục bộ lạc Âu Việt sinh sống chủ yếu tại miền Việt Bắc. Lãnh thổ của bộ lạc này trải rộng từ chân núi Ba Vì đến sườn núi Tam Đảo. Hùng Vương là những thủ lĩnh của thời kỳ Việt Nam bắt đầu dựng nước. Lãnh thổ đầu tiên của tổ tiên ta lúc đó chính là những vùng đất nêu trên. Truyền thuyết “Sơn Tinh” đánh thắng “Thủy Tinh” là tiên anh hùng ca đậm đà màu sắc thần thoại ca ngợi người dân Lạc Việt đánh thắng trận đấu giặc lụt để dành lấy những mảnh đất mầu mỡ ven sông (lấn sông lấn biển để phát triển từ vùng núi xuống dần đồng bằng, biển).

Trong bước đường chuyển biến từ chế độ Mẫu hệ sang chế độ Phụ hệ dưới thời kỳ Hùng Vương, xã hội Việt Nam vẫn bảo lưu một truyền thống khá vững chắc, đó là vai trò quan trọng của người đàn bà, người mẹ trong gia đình, ngoài xã hội. Phong tục thời Hùng Vương chưa chịu ảnh hưởng của lối trọng nam khinh nữ thời phong kiến sau này. Trai gái Lạc Việt tự do gặp gỡ nhau trong những ngày hội giao duyên. Vai trò của người mẹ tron gia đình rất quan trọng.

Những truyền thống tốt đẹp đó (tinh thần công xã, vai trò quan trọng của người phụ nữ, của người mẹ) còn được duy trì rất lâu trong xã hội Việt Nam.

Vào nửa sau thế kỷ III trước công nguyên, nhân sự suy yếu của triều đại Hùng Vương cuối cùng, Thục Phán – một thủ lĩnh người Âu Việt ở miền núi đã phát nhiều đạo quân tiến đánh Kinh đô Văn Lang (miền Lâm Thao Bạch Hạc) và đánh đổ triều Hùng. Thục phán dựng nước Âu Lạc, tự xưng là An Dương Vương và dời đô xuống miền Cổ Loa. Việc dời đô từ vùng trung du xuống vùng đồng bằng (sau này là Long Biên – Luy Lâu) là một biểu hiện của sự phát triển lớn mạnh của dân tộc ta. Đó cũng là sự phát triển theo quy luật của người Việt Cổ.

Do vậy, xem xét nhìn nhận vấn đề thờ phụng, cội nguồn của sự thờ phụng, hay nhân vật được phụng thờ của người Việt từ cổ đến kim - chúng ta cần có cách nhìn sâu sắc theo quan điểm lịch sử từ góc độ tín ngưỡng “nguyên lý mẹ - thờ mẫu”. Riêng về nhân vật được thờ còn là quan niệm suy tôn các bậc “khai quốc công thần”, chứ không đơn thuần chỉ là xét về thế thứ gia tộc (hoặc đời vua).

Xem xét vấn đề thờ phụng, cội nguồn của sự thờ phụng ở nơi thờ Kinh Dương Vương (Thuận Thành, Bắc Ninh) hay ở khu di tích Đền Hùng Phú Thọ) cũng như vậy.

Vấn đề lễ hội dân gian cũng vậy!

Tìm hiểu vấn đề lễ hội dân gian ở các di tích thờ Kinh Dương vương, Lạc Long Quân, Âu Cơ - ở vùng Á Lữ nói riêng, vùng Luy Lâu Thuận Thành nói chung là hết sức phong phú đa dạng. Gắn với mỗi nhân vật được thờ ở di tích là những câu chuyện cổ, những phong tục, tập quan, lễ nghi, những ngày hội với những bài ca điệu múa cổ truyền, những đám rước… mang đậm đà bản sắc dân tộc.

Hệ thống về mảng truyện dân gian và phong tục tập quán lễ hội thờ Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân, Âu Cơ không chỉ phân bố trong làng xã (Đại Đồng Thành) mà còn lan tỏa văn hóa này đều tập trung nói về công tích của Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân, Âu Cơ. Nó chiếm một vị trí đáng kể trong tư tưởng, tình cảm qua nhiều thế hệ người dân nơi đây.

Ở lễ hội Á Lữ, người dân tổ chức đám rước lớn, kiệu Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân, Âu Cơ từ đình ra đền, rồi lại từ đền ra lăng và ngược lại. Đồng thời một đám rước lớn cũng được diễn ra. Đám rước với cờ trống uy nghiêm, với một chiếc chóe lớn được khênh lên thuyền đưa ra giữa dòng song Đuống - nơi nước trong nhất. Ở đây ông chủ tế cùng một số người hành lễ - múc nước sông đổ vào chóe sành (hoặc sứ), sau đó mang về đình làm lễ “mộc dục” (tắm tượng thờ), rồi rước ra lăng Kinh Dương Vương để tưới cho cây cối mong cho cây cối tốt tươi mùa màng bội thu, nhà nhà no ấm …

Thực tế cho thấy hầu hết ở các lễ hội thờ Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân, Âu Cơ đều diễn ra nghi thức rước nước, mặc dù có khác nhau ít nhiều về quy mô lớn hay nhỏ, được tiến hành vào thời gian nào trong ngày để tổ chức lễ hội, hoặc địa điểm lấy nước… có khác nhau, nhưng đều rất trọng thể với lực lượng tham gia rất đông đảo chủ yếu là người bản xã./.

                                                                                                                                                                                      LÊ VIẾT NGA