Trang chủ VĂN HIẾN BẮC NINH - KINH BẮC

ĐẤT RỒNG THIÊNG
15:15 | 27/10/2021

Chúng ta đang sống trong thời đại khoa học diệu kỳ của thế kỷ XXI. Có bao điều còn tiềm ẩn trong thiên nhiên đất trời và trong chính mỗi con người. Tìm hiểu, làm sáng tỏ điều này cần thiết và bổ ích vì điều tiềm ẩn ấy là năng lượng, phát hiện được sẽ phục vụ cuộc sống, làm cho cuộc sống phong phú sinh động hạnh phúc hơn.

Con người ta sống có biết bao kênh năng lượng truyền vào. Lực tâm lí mạnh như lực vật lí. Năng lượng có thể biến thành vật chất và vật chất có thể biến thành năng lượng. Tâm linh là điều linh thiêng từ tâm mà ra. Con người là động vật bậc cao mới có tâm linh. Cơ thể con người là một tiểu vũ trụ, kỳ lạ lắm. Các vĩ nhân có hào quang tỏa sáng là thực. Đó là người “Đạo cao - Đức trọng”. Đạo cao thì long hổ phủ phục. Đức trọng thì quỉ thần thất kinh. Tâm linh là năng lượng đặc biệt ở các mức độ khác nhau trong mỗi cơ thể người. Con người phải khổ luyện để “Đạo cao - Đức trọng”, sống đẹp đời, nhân ái và trí tuệ. Nghiên cứu khoa học tâm linh và thực nghiệm tâm linh rất cần thiết cho cuộc sống đương đại, bởi như nhà bác học Anh - Xtanh đã nói: “Khoa học phải tâm linh mới có niềm tin thực hiện. Nhưng tâm linh phải khoa học mới đúng đắn”.  

Năm 2010 Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đã tổ chức kỷ niệm 1000 năm Thăng Long - Hà Nội thành công. Dấu ấn này đi vào lịch sử nối nghìn xưa với nghìn sau, với bao khát vọng “Con Rồng Việt Nam” bay lên, khát vọng đất nước con người Việt Nam phát triển tới đỉnh cao hạnh phúc. Cảm hứng này cho ta tình cảm và sức mạnh hành động yêu Tổ quốc, yêu Đồng bào, ước mơ “Nghìn xưa Đại Việt Thăng Long - Ngày nay sáng đẹp con Rồng Việt Nam”.

Thăng Long - Rồng bay lên là linh khí của đất trời Việt Nam mình, là Tổ quốc dáng Rồng lớn bay lên bên biển Đông của Thái Bình Dương. Đất nước có nhiều vùng “Địa linh, nhân kiệt, xuất nhập hanh thông” (Đất thiêng, người giỏi, ra vào may mắn). Đức Vua Thái Tổ Lý Công Uẩn, người con của đất thiêng tâm điểm hương Cổ Pháp (nay là Đình Bảng - Từ Sơn - Bắc Ninh) là một Phật tử thuần thánh, là “Người khổng lồ về nhân ái và trí tuệ, một nhà tổ chức vĩ đại, đa năng và toàn diện” đã “đứng lên, vượt qua mây núi Hoa Lư” nhìn rộng và xa mà tìm thấy đất Đại La là chân trời “Trung tâm của trời đất nơi có thế hổ phục, rồng chầu, chính giữa Nam, Bắc, Đông, Tây, tiện nghi núi sông sau trước. Vùng này đất rộng mà bằng phẳng, thế đất cao mà sáng sủa, dân cư không khổ vì thấp trũng tối tăm, muôn vật hết sức tươi tốt phồn thịnh. Xem khắp nước Việt, đó là nơi thắng địa, thực là chỗ tụ hội quan yếu của bốn phương, đúng là nơi thượng đô kinh sử mãi muôn đời...” mà ban rõ trong “Thiên đô chiếu” để thu năm Canh Tuất - 1010 dời đô từ Hoa Lư ra, định đô Thăng Long “Vì muôn ức đời con cháu...”, vì chính thế hệ chúng ta hôm nay và con cháu chúng ta mai sau. Thăng Long là “Rồng bay lên”. Đặt tên kinh đô là Thăng Long thật huyền diệu và kỳ bí, nhưng thể hiện bản lĩnh tuyệt vời của lãnh tụ và của cả dân tộc trước một bước ngoặt đổi mới kinh đô để đổi mới đất nước, từ nơi thế thủ ra nơi thế mở, từ nơi núi non hiểm trở ra nơi đồng bằng thuận lợi cả giao thông thủy bộ, tạo hùng khí phát triển “Rồng bay lên” cho cả đất nước, tương xứng như một tuyên ngôn đổi mới, là sự đổi mới cả trong tư duy chính trị lẫn trong kinh tế xã hội, đánh dấu một bước phát triển mới trong lịch sử xây dựng đất nước của dân tộc ta. Ban “Chiếu dời đô” và thực hiện được ý tưởng này là Lý Thái Tổ thể hiện sự hiểu biết phong thủy, địa lý sâu sắc; tài trí thao lược, có sức mạnh lớn về tổ chức và sức mạnh lớn về tâm linh. Mắt Lý Thái Tổ đã được nhà thơ Huy Cận ngợi ca: “Mắt chứa thời gian, chứa không gian/ Nhìn trước nghìn năm mắt địa bàn/ Vạn dặm phù sa bồi lịch sử/ Dời đô Rồng hiện nước sang trang”. Thật sự là Lý Thái Tổ với việc định đô Thăng Long là có tầm nhìn chiến lược vĩ đại, tầm nhìn thiên niên kỷ. Tầm nhìn của nhà tiên tri ngoại cảm tâm linh vĩ đại, dự đoán chính xác cho tương lai.

Một nghìn năm đã qua, với bao biến cố thăng trầm của lịch sử. Thăng Long từng là Đông Đô dưới triều Hồ, Đông Quan khi giặc Minh xâm lược, Đông Kinh thời Lê Sơ - Lê Trung hưng, Bắc Thành khi Tây Sơn ra và là Hà Nội năm 1831 do Vua Minh Mệnh triều Nguyễn chuyển đô vào Huế, đổi thành Thăng Long là tỉnh Hà Nội. Hà Nội là vùng trong dòng sông, nhưng hào khí Thăng Long vẫn từng ngày nhân lên trong lòng dân tộc, trong mỗi công dân của Tổ quốc, Rồng vẫn bay lên bên bờ biển Đông. “Thiên đô chiếu” của Lý Thái Tổ là bản tuyên ngôn chính xác về địa lí chiến lược, địa lí chính trị, địa lí quân sự, địa lí kinh tế, địa lí văn hóa... Xây dựng và bảo vệ non sông Đại Việt cường thịnh - Thiên hạ thái bình.

Cách mạng tháng Tám thành công, ngày 2/9/1945 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc Tuyên ngôn Độc Lập tại quảng trường Ba Đình - Hà Nội, khai sinh nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. 11 ngày sau đó, ngày 13/9/1945 (tức ngày 8/8/Ất Dậu, ngày giỗ đức Vua Lý Thánh Tông, Người đã đổi tên nước Đại Cồ Việt thành Đại Việt, vẫn là đề cao tinh thần tự tôn, tự cường, tự chủ của dân tộc). Bác Hồ về Đền Đô lần đầu, cùng nhân dân tưởng niệm Lý Bát Đế, trước khi Người cùng nhân dân bầu cử Quốc hội khóa I thành công, và quyết định lấy Hà Nội là Thủ đô của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Giờ đây Hà Nội là Thủ đô anh hùng, Thủ đô của trí tuệ, niềm tin và hi vọng. Nơi lắng hồn núi sông ngàn năm, thành phố vì hòa bình. Dưới tên Việt Nam dân chủ cộng hòa xưa và Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam nay có dòng chữ “Độc lập - Tự do - Hạnh phúc” thể hiện khát vọng của dân tộc và hào khí Thăng Long. Nhân dân mong muốn nhân dịp kỷ niệm 1000 Thăng Long - Hà Nội, Quốc hội lại đổi tên Thăng Long cho Thủ đô ta thì thật ý nghĩa, phát huy truyền thống của ông cha, làm ngời sáng lên hào khí Thăng Long - hồn thiêng sông núi, sức mạnh vô biên của dân tộc Đại Việt - Việt Nam anh hùng. Lý Thái Tổ và Hồ Chí Minh là những con người vĩ đại. Trong lòng dân, người là thánh nhân.

Có nhiều điều tưởng như bí ẩn nhưng là chuyện thực, mang yếu tố tâm linh lạ lùng. Lý Thái Tổ sinh năm Giáp Tuất (974), chính thức làm lễ đăng quang xuân năm Canh Tuất - 1010 và định đô Thăng Long thu năm Canh Tuất (1010). Triều Lý kết thúc năm Bính Tuất (1225)... ứng chuyện chùa Ứng Thiên Tâm (từc Chùa Cổ Pháp - Chùa Dận nơi Lý Công Uẩn ra đời), trước đó có con chó lưng lông vằn rõ chữ “Tuất thiên tử”.

Nhà Lý trị vì đất nước 216 năm (1009 - 1225) 9 đời Vua, thực quyền chỉ có 8 Vua là Lý Thái Tổ, Lý Thái Tông, Lý Thánh Tông, Lý Nhân Tông, Lý Thần Tông, Lý Anh Tông, Lý Cao Tông và Lý Huệ Tông. 8 đức Vua này trị vì đất nước 214 năm, ứng “Thiên đô chiếu” của Lý Thái Tổ có 214 chữ.

Lý Thái Tổ khi đăng quang rằm tháng Ba năm Canh Tuất - 1010 đã đặt niên hiệu là Thuận Thiên, làm theo ý trời. Đền Đô vốn là Thái miếu của nhà Lý do Lý Thái Tổ cho xây dựng vào năm 1019 ở thế đất dáng 8 đầu của tám con Rồng. Vậy nên từ thời Trần, nhân dân thờ 8 đức Vua triều Lý ở Đền Đô xây dựng như cung kinh thành. Vì vậy, Đền Đô cũng gọi là Đền Lý Bát Đế. Trong Đền, từ xưa đã có bức Hoành phi ghi bốn chữ “Cổ Pháp triệu cơ” (Cổ Pháp là đất dựng cơ nghiệp - hiểu trong văn cảnh này là cơ nghiệp nhà Lý). Riêng Lý Chiêu Hoàng, Vua thứ 9 của nhà Lý làm Vua 2 năm cuối khi mới 8 tuổi, rồi nhường ngôi cho chồng là Trần Cảnh nên người xưa thờ riêng ở Đền Rồng nhỏ xinh ở phía Tây của Lý hương Cổ Pháp. Nơi ấy chiều về hoàng hôn xuống, trái với Đền Đô ở phía Đông của làng nơi sáng ra mặt trời lên.

Chủ tịch Hồ Chí Minh hoạt động cách mạng giải phóng dân tộc có nhiều bí danh, trong đó có bốn bí danh họ Lý (Lý Thụy, Lý Mỗ, Lý Phát, Lý An Nam).

Sau ngày nước nhà giành được Độc lập, Người đã bốn lần về với Cổ Pháp - Đình Bảng - Đền Đô, quê hương nhà Lý: Lần đầu ngày 13/9/1945, lần hai ngày 5/2/1946, lần ba ngày 30/10/1946, lần bốn ngày 17/12/1955.

Bác Hồ khi hoạt động cách mạng giải phóng dân tộc đã rất coi trọng bồi dưỡng thế hệ trẻ. Bác cho tám thiếu niên được mang tên họ Lý để tạo ra một dòng họ Lý cách mạng. Đó là: Lý Tự Trọng, Lý Văn Minh, Lý Thúc Chất, Lý Anh Tự, Lý Nam Thanh, Lý Trí Thông, Lý Phương Đức, Lý Phương Thuận. Những người này đã trở thành những thanh niên yêu nước, phẩm chất tuyệt vời. Lý Tự Trọng tên khai sinh là Lê Văn Trọng, quê ở Hà Tĩnh đã để lại câu nói bất hủ: “Con đường của thanh niên chỉ có thể là con đường cách mạng, không có con đường nào khác”. Lý Anh Tự là Nguyễn Sơn, quê ở Hà Nội trưởng thành là Lưỡng quốc tướng quân, tướng của Việt Nam và tướng của Trung Quốc.

Di chúc của Bác Hồ, phần về việc riêng có 79 từ ứng với 79 năm cuộc đời của Bác. Cuộc đời này là cuộc đời của một thánh nhân, cuộc đời của một anh hùng dân tộc, nhà văn hóa lớn thế giới, Mao Trạch Đông đã đề từ viếng “Hồ Chí Minh chí khí tráng sơn hà, cứu quốc, anh hùng duy hữu nhất/ Minh tinh quang vũ trụ, Á, Âu hào kiệt thị vô song”. Bác Hồ là nhà tiên tri ngoại cảm tâm linh vĩ đại đã dự báo chính xác và tổ chức thực hiện thành công bao việc lớn cho Tổ quốc độc lập, tự do, nhân dân ấm no hạnh phúc. Cuộc đời của Người gắn bó với lịch sử dân tộc và Người làm rạng rỡ lịch sử dân tộc Việt.

Đền Đô - nơi thờ tám vị Vua triều Lý mãi mãi in dấu chân Bác Hồ. Nơi đây huyền diệu tâm linh, lấp lánh hồn nước, tình quê, tình người. Nơi đây khí thiêng hội tụ, có sự lôi cuốn tiềm ẩn. 

Đền Đô bị chiến tranh phá hủy hoàn toàn năm 1952, được xây dựng lại từ năm 1989 trên nền Đền cũ, là một minh chứng về sức sống của nhân dân Việt Nam anh hùng. Người về Đền Đô ngày nay, trong tình cảm lớn “Uống nước nhớ nguồn”, là được gặp các vĩ nhân định đô Thăng Long - Hà Nội: Lý Thái Tổ - Hồ Chí Minh, vui cùng nhau nối nghìn xưa với nghìn nay, vinh danh hào khí Thăng Long - vinh danh thời đại Hồ Chí Minh, mỗi người đều cùng gắng làm một người chân chính sống say ước mơ và hành động. Sự thanh thản tâm linh cho ta niềm tin sức mạnh, thương quí nhau, giúp nhau cùng sống đẹp tình người. Đất giàu yêu nhiều, đất nghèo thương lắm. Đất thiêng chính ở lòng mình quí trọng, gắn bó. Dù đi khắp chân trời góc biển, góc tâm hồn vẫn gửi gắm nơi quê, nơi chôn nhau cắt rốn của bao kiếp người.

Lễ hội Đền Đô năm Đinh Hợi 1997, khi Bắc Ninh vừa tái lập, theo tâm thức của người dự lễ hội thì tám vị Vua triều Lý đã hiển linh, vì họ cùng nhìn thấy “Bát Đế vân du” trên bầu trời Đền Đô vào chính ngọ ngày rằm tháng Ba, đại lễ đăng quang đắc tâm linh. 

Khi hàng nghìn người đang cùng thành kính lễ Vua và đội tế thì hành tế. Người người đã vui reo. Tôi thì camera thu được hình đó, rồi làm thơ cho lời bình của phim “Bát diệp trùng quang - Bát vân long/ Hiển linh giây phút rộn muôn lòng/ Bát Đế vân du ngày lễ hội/ Cổ Pháp triệu cơ Lý đăng quang/ Địa linh Thiên ứng tâm nguồn cội/ Nhân kiệt định đô đất Thăng Long/ Hậu duệ ơn Vua thêm hùng khí/ Đại Việt - Rồng lên rạng núi sông”. 

Chỉ là trong khoảnh khắc tám vầng mây hiện trên đỉnh Đền Đô nhưng là sự giao cảm giữa trời và đất, giữa thiên nhiên và con người, giữa xưa và nay. Cuộc sống có tâm linh.

Đền Đô nơi nguồn cội tâm linh cũng là nơi khơi nguồn nghệ thuật. Là người ghi tư liệu lịch sử Đền Đô, tôi chụp được nhiều hình ảnh lạ ở Đền Đô chân thực tự nhiên, những năm trước bằng máy cơ, phim nhựa và giờ đây là bằng máy ảnh kỹ thuật số vẫn chân thực tự nhiên.

Ngày 5/7/Mậu Dần (26/8/1998), giỗ đức Vua Lý Anh Tông. 8 giờ bắt đầu khởi lễ, tôi đã chụp được chùm ảnh ghi hình những vầng mây bay từ Thọ lăng Thiên Đức nơi yên nghỉ của các đức Vua triều Lý trước Đền Đô một cây số bay về Đền Đô, tụ trên đỉnh Đền đến 45 phút trong thời gian Ban tế hành tế tưởng niệm Lý Bát Đế, khi tế xong những vầng mây này tản tại chỗ. 

Từ các vị trí khác nhau, tôi đã ghi hình, rồi đặt tên cho những ảnh in ra như “Tiếng vọng cội nguồn”, “Bát Đế hiển linh”...                    

Tôi cũng đã chụp được ảnh “Hoàng long linh hiện” một dải mây rồng vàng từ Thăng Long - Hà Nội bay về Đền Đô, đến đỉnh Đền thì tản lúc 4 giờ 45 phút ngày 1/9/1998, khi bắt đầu khởi rước từ Đền Đô ra thủ đô mừng ngày Hội non sông, chào mừng 300 năm Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh. Ảnh này gợi nhớ chuyện xưa mùa thu năm 1010 khi Thái Tổ Lý Công Uẩn dời kinh đô từ Hoa Lư ra thành Đại La. Thuyền đỗ dưới chân thành, có Rồng vàng hiện ra ở thuyền ngự bay lên (thực ra là trong làn hơi nước sông Hồng mùa thu bay lên gặp tia nắng sớm huyền diệu, lung linh đẹp lạ thường), cho là điềm lành, đức Vua với nhãn quan của lãnh tụ mang tầm nhìn chiến lược với sự phát triển của đất nước đã đặt tên kinh đô là Thăng Long. Thăng Long là Rồng bay lên. Khoảnh khắc lạ kỳ rất thực tâm linh và hiện hữu này đã được ghi kịp vào phim nhựa của chiếc máy cơ để tốc độ 30, ống kính 4, vô cực, có đèn phát sáng cũng chẳng tới. Thật là “Đền Đô một thoáng Rồng vàng hiện/ Trời đất ân tình tụ khí thiêng/ Đình Bảng - Người về tâm đức thiện/ Rồng hổ tương phùng thỏa tâm linh”. 

Về Đền Đô cùng nhân dân tưởng niệm Lý Bát Đế ngày 21/1/2009, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Phú Trọng, nay là Tổng Bí thư, đã thân tình nói với đồng bào, đồng chí, rằng: “Những sự tích và những đám mây ở đây là rất xúc động, rất linh thiêng. Nó báo hiệu một cái gì đó vừa lung linh trong truyền thống của dân tộc mình, vừa sáng chói các triển vọng của non sông đất nước ta. Nó thể hiện một cái bề sâu và sự bền vững văn hóa Việt Nam ta...”

Chúng ta đang sống những ngày vẻ vang của sự đổi mới. Tâm linh làm cho ta thanh thản lòng, nhân ước mơ đẹp. Tâm thiện đôn hậu thành kính tưởng nhớ tiền nhân cho lòng giàu nhân ái và trí tuệ. Tôi đã gặp được bao người nhân nghĩa về Đền Đô và chụp được những ảnh ngời sáng tình người, tình quê. Đó là hình đẹp của thiên nhiên - đất nước - con người Việt Nam dâng lên Tổ quốc mừng trái tim Thăng Long - Hà Nội đã trên 1000 năm./.

                                                                                                                                                                                                          NGUYỄN ĐỨC THÌN