Trang chủ VĂN HIẾN BẮC NINH - KINH BẮC

CHÙA XUÂN QUAN VÀ LỄ HỘI “TẠ ÂN”
10:24 | 22/07/2022

Chùa Xuân Quan - Huệ Trạch Tự, nay thuộc thôn Xuân Quan, xã Trí Quả, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh. Là một trong những địa linh bậc nhất vùng Dâu - Luy Lâu xưa. Mảnh đất Xuân Quan là nơi diễn ra và chứng kiến những biến động lớn của lịch sử dân tộc - thời kỳ Bắc thuộc. Tiêu biểu và đặc biệt là cuộc khởi nghĩa hai Bà Trưng (Năm 40 đầu Công nguyên) khi nghĩa quân tiến đánh, công phá thành Luy Lâu - Thủ phủ/ dinh luỹ cuối cùng của nhà Đông Hán ở nước Việt. Cuộc khởi nghĩa để lại những dấu ấn đặc sắc trên đất này, mà biểu hiện cụ thể là việc thờ cúng hai nữ tướng của Hai Bà Trưng là Ả Tắc, Ả Dị và hàng chục các tướng sĩ khác trên vùng đất Luy Lâu - Siêu Loại Thuận Thành.

Chùa Huệ Trạch ngày nay, chính là chùa Thiền Chúng xưa, là linh huyệt mà Tùy Hoàng Đế (phương Bắc) đã chọn để an xá lợi Phật, nhằm hoàng dương Phật Pháp, phổ độ chúng sinh; Dậy bảo Tam Đồ, lục đạo, cùng gieo duyên lành để hưởng quả phúc như lời giáo hóa của Đức Phật!

Và theo Xá Lợi Minh (Tấm bia cổ nhì Việt Nam hiện nay - Năm 601) mới được phát hiện tại khu vực chùa Xuân Quan - Huệ Trạch tự, có ghi: “Duy Đại Tùy Nhân Thọ nguyên niên tuế thứ, Tân Dậu, thập nguyệt, Tân Hợi sóc thập ngũ nhật, Ất Sửu Hoàng đế phổ vị nhất thiết pháp giới, u hiển sinh linh, cẩn ư giao châu, Long Biên huyện, Thiền chúng tự, phụng an xá lợi, kính tạo linh tháp…”. Dịch nghĩa: Ngày 15 tháng 10 năm 601 triều đại nhà Tùy Hoàng đế Vũ Nguyên, độ khắp chúng sinh trong ba cõi, tại chùa Thiền Chúng, huyện Long Biên (Luy Lâu), Giao Châu (chùa Xuân Quan - Huệ Trạch tự nay (Ở huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh) đặt xá lợi và xây tháp… Vậy, chứng tỏ chùa Xuân Quan - Huệ Trạch tự đã có từ trước đó (Năm 601). Cũng theo sắc phong Phật chủ chùa Huệ Trạch có đoạn viết:

“Bắc Ninh tỉnh, Thuận Thành phủ, Siêu Loại huyện, Khương Tự tổng, Phương Quan xã, Xuân Lan thôn phong phụng sự Đại Thánh Pháp Thông Vương Phật tôn thần hộ quốc tý dân… Túy mục dực bảo trung hưng thượng đẳng thần…”. Dịch nghĩa: Sắc Bắc Ninh tỉnh, Thuận Thành Phủ, Siêu Loại huyện, Phương Quan xã, Xuân Quan thôn, Phong cúng lễ Đại Thánh Pháp Thông Vương Phật tôn thần, bảo vệ đất nước che chở nhân dân, xét công gia phong là Túy mục dực bảo trung hưng thượng đẳng thần”.

Theo các tài liệu, thư tịch cổ còn lưu giữ tại chùa và truyền thuyết: Đại Thánh Pháp Thông Vương Phật - Là vị phật chủ được thờ tại chùa Xuân Quan - Huệ Trạch tự cũng là vị “Tứ pháp trưởng” chủ thể địa phương này, kề bên cạnh trung tâm Dâu - Luy Lâu và là người phụ nữ Việt Nam tu luyện đắc đạo thành Phật...

Còn theo tấm bia đá ở chùa Đại Trạch - Hương Thủy tự (thôn Đại Trạch - Đình Tổ) “Đại Thánh Pháp Thông Phật phả lục”: “… Xưa nước Việt ta dựng nền chia danh giới từ thời Hùng Vương dựng nghiệp. Vua, Thánh, xây dựng các cơ đồ, trải 18 đời lâu dài hơn 2000 năm thịnh trị. Đời đời cha truyền con nối, đều xưng hiệu là Hùng Vương, vàng lụa, xe, nhà, thơ từ, núi sông đều thống nhất một mối. Đấy là Thủy tổ của nước Việt Nam. Đến vua Hùng Vương cuối cùng không có con, truyền nước cho Thục An Dương Vương, được hơn 50 năm. Triệu Đà xâm chiếm từ đó thuộc về Tây Hán, Đông Hán, Ngô, Tống, Tấn, Lương, Tề gồm 314 năm. Đến nước ta có tiền Lý lấy lại Nước, hậu Lý, Đinh, Lê, lại đến Lý triều, Vua sáng, Tôn hiền rất là thịnh trị. Duy Lý triều sớm ứng thập bát tứ chi thành, Vua nắm quyền, cha truyền, con nối. Truyền Thái Tôn, Thánh Tôn, Anh Tôn, Thần Tôn.

Ở đạo Kinh Bắc, Thuận An phủ, Siêu Loại huyện, Phương Lan xã, Xuân Lan thôn, có một nhà họ nguyễn tên Thành lấy người trong huyện ở Đại Trạch xã, là Nguyễn Thị Nga làm vợ. Vợ chồng hòa thuận, đẹp đôi vừa lứa, nhưng hiếm vì hơn 20 năm chưa có con. Nhân dịp tháng 7 trong lúc trăng thanh gió mát, vợ chồng thường có ý nghĩa bàn chuyện nhân quả, thời xưa đến việc tương lai sau này. Hai vợ chồng đều nói, nhờ trời phật đã cho gia đình nhà ta giầu có, nhưng tuổi đã nhiều, con còn muộn. Vậy nên mang số tiền của ấy để làm phúc cầu lễ mười phương. May ra được vài chút con, để toại nguyện ý muốn của thời tuổi trẻ. Từ đó hai vợ chồng thành tâm làm phúc đi cầu lễ tất cả những nơi danh lam cổ tự. Lòng thành thấu đến trời đất. Đến dịp trời xuân, hòa khí trăm hoa đua nở, muôn vật thắm tươi. Vợ chồng ông Thành đến Sơn Nam Thượng, xứ Ứng Thiên Phủ, Hoài An huyện, Hương Tích động. Thật là một nơi Thiên Nam đệ nhất thắng cảnh, rất linh thiêng, cầu sao được vậy. Vợ chồng liền đem tiền hương, lễ vật đến cầu trước Phật: Vợ chồng con ở nơi trần thế, chuyên tâm làm việc thiện, việc ác dù nhỏ cũng không dám theo, duy đường tử tức còn rất muộn, xin cầu Phật Tổ từ bi quảng đại, chứng dám lòng thành cho lấy một mụn con, dù trai dù gái đều nhờ vào đức lớn của Phật cả. Lễ cầu Phật xong, nửa đêm hôm ấy, nằm mơ thấy đi qua một dãy nhà cửa, lầu điện nguy nga. Có một người mặc áo xanh tay cầm cành phan dẫn vào một tầng thấy cung điện sáng rực, các quan theo hầu la liệt. Nghe có tiếng bảo rằng: Dẫn hai vợ chồng vào nội điện. Quan mặc áo xanh tiếp tục dẫn đi một đoạn nữa thấy lâu đài rộng rãi, hai bên có cờ quạt, binh sỹ rất là nghiêm chỉnh. Trước điện có một bệ đá, quan mặc áo xanh quỳ xuống tâu rằng: Vâng Ngọc Hoàng sắc chỉ, dẫn hai vợ chồng Thành đến trước điện. Trong lúc ấy vợ chồng ông Thành bàng hoàng kinh sợ quỳ tại trước bàn, trông thấy tầng trên có một vị quan, Đầu đội mũ bách tinh, mình mặc áo hoàng bào, ngồi rất nghiêm chỉnh. Nói lớn bảo rằng, vợ chồng nhà ngươi đã thành tâm làm phúc, thấu đến thiên không. Lên trời cho một vị tiên nữ tên là Giáng Kiều xuống đầu thai làm con. Vợ chồng nhà ngươi nên cẩn thận. Nói xong chợt thấy một tiếng sấm động rất to, bèn tỉnh dậy. Biết là giấc mộng tốt, sáng hôm sau, vợ chồng làm lễ tạ trước Phật. Trở về nhà được vài tháng thấy vợ có thai, sau 12 tháng, đến tháng 4 ngày 12 sinh hạ được một người con gái rất xinh, môi hồng má phấn, mắt phượng mày ngài, người thường thật là khó ví. Vợ chống rất mừng, thật sự yêu mến. Chợt nhớ đến điềm mộng trước, không dám đặt tên thường, gọi là đệ nhất Nương Tử.

Đến năm 12 tuổi cả cha và mẹ đều mất, Nương Tử theo Dì ở tại Đại trạch xã. Đến năm 14 tuổi dì muốn gả chồng, Nương Tử không nghe từ đó phát tóc xuất gia, trai giới ăn theo Phật. Một ngày nghe tin ở chùa Phật Tích có một vị thiền sư tên là Từ Đạo Hạnh rất là cao tăng đạo đức. Nương Tử xin vào học đạo thiền sư. Nương Tử vốn đã biết trước tất cả những kinh nhà Phật, nên chỉ học trong vài tháng, đã đại tinh thông những tài lạ. Gọi gió, gọi mưa, có phép hay làm, sấm, chớp, biến tướng tàng hình, đi và đến mọi người không thể biết. Thật là một người Nương Tử siêu việt, đạo sỹ, thiền sư rất yêu mếm kính trọng, cho nên Nương tử tự đặt tên là Pháp Thông.

Nương Tử đã học đắc đạo trở về Xuân Lan thôn, tự mình làm lấy một chùa ở tại đầu thôn để tu ngày đêm, trai giới tụng niệm chân kinh. Xuân Lan, Đại Trạch nội ngoại hai thôn, những người nghèo đều được giúp đỡ. Những người ốm đau điều được cứu chữa, nên nhân dân hai thôn nhớ công đức ấy, quý như mặt trăng, mặt trời, thân như cha mẹ.

Năm ấy ngày 15 tháng 8, Nương Tử tắm rửa sạch sẽ, thay quần áo, thiết lập hương án trước sân, đốt hương cầu khấn tụng niệm chân kinh, đêm mùa thu trời quang trăng tỏ chợt có đám mây đen ở trên đầu hạ xuống một thoáng. Trời đất tối đen mưa gió ào ào, sấm chớp ầm ầm. Năm đó, Nương Tử 18 tuổi. Nương Tử hóa, chỉ còn quần áo cũ để lại. Nhân dân biết rõ sự việc đều cảm công đức của Nương Tử, bèn đem quần áo cũ của Nương Tử táng tại trong chùa, tạo thần tượng. Tả thần hiệu, viết Pháp Thông Phật. Nhận ngôi chùa đấy để làm đền thờ. Ngay lúc ấy xã Đại Trạch biết được việc ngài đã hóa, nhớ tới công đức cũng thiết vị tại chùa và cứ đến hàng năm, tháng tư ngày sinh Phật, nhân dân tới Phương Lan xã, Xuân Lan thôn rước Phật trở về sở tại, để thờ cúng từ đó hai thôn đều phụng sự trở thành lệ thường hàng năm…”

Cũng theo truyền thuyết và thần tích tại địa phương: Lại nói, từ khi Phật hóa rất là linh ứng, cầu phong đắc phong, cầu vũ đắc vũ, thường ngày giúp nước, giúp dân rất là linh ứng. Đến đời nhà Trần, vua Nguyên sai Ô Mã Nhi đem quân sang xâm chiếm nước ta, đóng tại đại đồn ở Bạch đầu giang. Vua Trần Thánh Tông sai Hưng Đạo Đại Vương trần Quốc Tuấn làm đại nguyên súy thống lĩnh ba quân đem quân đánh giặc. Hưng Đạo Vương sai con trai là Trần Hưng Hồng vương cầm quân tiến về đạo Kinh Bắc qua chùa Xuân Quan, Vương có vào làm lễ xin để phù hộ đánh giặc Nguyên, sau khi dẹp yên giặc đất nước được thanh bình xin viết biểu dâng Vua, tâu lên Vua xin phong sắc để nêu rõ sự linh ứng của người. Làm lễ xong đã chiều, Vương đóng quân tại đấy, Đức An phủ, đến nửa đêm thấy trong chùa sáng rực và hương xạ thơm lừng. Thấy một vị tiên nữ từ trên trời đi thẳng xuống, mình mặc áo vàng, đi thẳng vào ngồi ở trước điện nói rằng, Ta là Đại Thánh Pháp Thông Vương Phật, Ngọc Hoàng sai ta coi giữ tứ Pháp trưởng, Phong Vũ chi Thần, làm chủ tể địa phương này. Thấy nước nhà có giặc Nguyên xâm lược, Vua sai quan quân đi đánh, ta nguyện giúp đỡ để thấy rõ sự linh ứng, nói xong thì biến. Ông Trần Hưng Hồng liền vào làm lễ bái tạ, lập tức cử binh tiến đánh. Quân tiến đến cõi giặc, chưa đánh giặc đã tự tan, người cùng các danh tướng chém được Ô Mã Nhi, từ đó giặc Nguyên không dám xâm chiếm nữa. Kéo quân thắng trận trở về, Trần Hưng Hồng đã viết biểu dâng Vua nói lên sự linh ứng ở chùa Xuân Quan có công giúp phá giặc. Vua Trần bèn phong sắc chỉ, nguyên theo lời tâu phong là Đại Thánh Pháp Thông Vương Phật linh ứng. Sai quan đem sắc chỉ về dâng tế lễ, cho nhân dân cổ tiền để sửa sang tượng Phật và phụng sự, về sau rất là linh ứng, cầu phong đảo vũ rất là linh nghiệm. cho nên được sắc phong đời đời hương hỏa, cho muôn đời sau không bao giờ dứt, chuẩn cho Phương Lan xã, Xuân Lan thôn và Đại Trạch xã đồng phụng sự.

Pháp Thông là người có quan hệ máu thịt với Đại Trạch, đã ra sức cứu giúp nhân dân Đại Trạch khi gặp khó khăn, dịch bệnh, Pháp Thông cùng nhân dân Xuân Quan còn có công lớn trong việc giúp tướng Trần Hồng đánh thắng quân Nguyên, vì những lẽ đó, nhân dân Đại Trạch, luôn hàm ơn Pháp Thông và tỏ rõ trách nhiệm, trong việc gìn giữ ngôi chùa Xuân Quan. Hằng năm, đều tổ chức rước Pháp Thông về thờ cúng và dự hội hàng năm vào ngày 12 tháng 4 âm lịch, ngày hội đó được gọi bằng cái tên ghi đậm dấu ấn lịch sử - “Hội tạ ân”.

Lễ hội “Tạ Ân” chùa Xuân Quan - Huệ Trạch tự và chùa Đại Trạch - Hương Thủy tự, diễn ra từ ngày 11 đến ngày 14 tháng 4 (âm lịch) hàng năm. Cứ đến ngày mồng 7/4 (âm lịch) hạ tòa, ngày 12/4 là ngày sinh nhật làm lễ trai giới, thanh khiết, mở Hội ca sướng, đánh cờ… và cùng tổ chức rước thánh Pháp Thông từ chùa Xuân Quan về chùa Đại Trạch làm lễ một đêm, hôm sau mới lại rước tượng Phật - Đại thánh Pháp Thông trả lại về chùa Xuân Quan - Huệ Trạch tự.

Cũng theo thư tịch cổ còn lưu giữ ở địa phương, chùa Xuân Quan - Huệ Trạch tự, vốn được con trai thứ hai của Hưng Đạo Vương là Thái Bảo kiêm Quốc Công Trần Hưng Hồng xây dựng sau khi đánh thắng giặc Nguyên. Nhưng hiện nay, tại di tích không còn những di vật hay các dấu tích về ngôi chùa thời Trần, mà chỉ còn tấm bia “Huệ Trạch tự tôn tạo” khắc năm 1699 thì khi đó, chùa đã được trùng tu lớn và có nhiều công trình. Hiện nay, chùa Xuân Quan - Huệ Trạch tự có kiến trúc hình chữ Công, mặt quay về hướng Tây, gồm 7 gian tiền đường, 3 gian Thiêu hương và 3 gian Thượng điện làm theo lối chồng diềm tám mái… Cùng với các công trình kiến trúc, những nét chạm khắc tinh xảo và những mái đao cong vút nhẹ nhàng. Chùa Xuân Quan - Huệ Trạch tự còn lưu giữ một hệ thống tượng thờ phong phú cùng nhiều đồ thờ tự và các di vật, tài liệu mang nhiều giá trị về lịch sử văn hóa và nghệ thuật, tiêu biểu là: 30 pho tượng Phật, tượng Pháp Thông, Đức Thánh Tải, ngai gỗ thời Lê, hai đạo sắc phong năm 1924, hai bia đá khắc năm 1679 và 1876; Chuông đồng “Huệ Trạch tự chung” đúc năm 1826 và nhiều đồ thờ tự bằng gỗ, đá, kim loại khác.

Với những giá trị về lịch sử văn hóa và nghệ thuật tiêu biểu, cùng với những truyền thuyết và sự tích “Âm phù” liên quan đến chiến thắng giặc Nguyên của tướng quân Trần Hưng Hồng. Chùa làng Xuân Quan - Huệ Trạch tự đã được Nhà nước công nhận và xếp hạng là di tích Lịch sử văn hóa cấp Quốc gia từ năm 1992./.

 
 
 
                                                                                                                                                                                                            NHO THUẬN