Trang chủ VĂN HIẾN BẮC NINH - KINH BẮC

CÁC NHÀ KHOA BẢNG HỌ NGÔ, VỌNG NGUYỆT
14:15 | 19/08/2022

Họ Ngô, làng Vọng nguyệt, xã Tam Giang, huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh là gia tộc có truyền thống khoa bảng tiêu biểu vẻ vang nhất của huyện Yên Phong. Nhà sử học Phan Huy Chú từng ca ngợi: “Làng Vọng Nguyệt ở huyện Yên Phong có họ Ngô kể từ Ngô Ngọc đỗ chính bảng đời Hồng Đức, rồi năm đời đỗ Tiến sỹ liên tiếp thực là xưa nay hiếm có”.

Kể từ giữa thế kỷ XV, cụ Ngô Sử Toàn về lánh nạn ở Tam Sơn (Đông Ngàn) kết duyên với người con gái họ Chu (là Chu Thị Bột) quê ở Vọng Nguyệt, xã Tam Giang, huyện Yên Phong, sinh ra họ Ngô ở nơi đây (tính từ Ngô Như Ngọc) và Ngô Như Định (sau đi lính rồi sinh ra chi họ Ngô ở Diễn Châu, Nghệ An).

Ngô Ngọc, theo gia phả họ Ngô - Ngô Như Ngọc, hiệu là Tiềm Xuyên, sinh năm Nhâm Thân (1452), (sách ĐVLTĐKTL ghi sinh năm Ất Mùi - 1445 ), quê Vọng Nguyệt… là thân phụ của Ngô Nhân Hải, ông nội của Ngô Nhân Trừng, cố nội Ngô Nhân Triệt, cao tổ của Ngô Nhân Tuấn. Năm 1487 Ngô Như Ngọc thi đỗ Đệ nhị giáp Tiến sỹ xuất thân (Hoàng giáp), khoa Đinh Mùi, niên hiệu Hồng Đức 18, đời Vua Lê Thánh Tông. Ông làm quan đến chức Tổng đốc Kinh Bắc, rồi trở về triều làm chức Lễ khoa đô cấp sự trung, tạ thế  năm Kỷ Mão (1519), sau được vinh phong - Đặc Tiến  kim tử vinh lộc đại phu. Ông là Tiến sỹ khai khoa của làng Vọng Nguyệt và cả xã Tam Giang; là thế hệ Tiến sỹ thứ nhất khai đăng của Ngô lệnh tộc. Vào ngày Tiến sỹ tân khoa Ngô Như Ngọc vinh quy, bái tổ, Vua Lê Thánh Tông cảm ân nghĩa của cụ bà Chu Thị Bộtđã tặng 4 chữ vàng “Tiết Phụ Tinh môn”. Ngô Như Ngọc có 3 người con trai: Ngô Nhân Lan, Ngô Nhân Hải và Ngô Nhân Tổng đều đỗ Cử nhân trở lên. Ngô Nhân Hải chính là người có công cứu cả gia đình - gia tộc thoát khỏi họa tru di tam tộc.

+ Thoát họa chu di:

Truyện ký- Ngô Nhân Hải là con thứ  hai của Ngô Như Ngọc, đỗ đệ nhị giáp Tiến sỹ xuất thân (hoàng giáp) khoa Mậu thìn niên hiệu Đoan Khánh 4 (1508) đời Vua Lê Uy Mục. Ông làm quan đến chức Án sát ngự sử, Thừa  chinh sứ (cùng triều với cha). Ngô Nhân Hải nổi tiếng hay chữ, lý lẽ triết tự của ông  đã cứu cho cả gia đinh, gia tộc khỏi họa chu di. Đó là vào năm 1511, em ruột của ông là Ngô Nhân Tổng cùng với Than Duy Nhạc dấy quân vùng Quế Võ, Yên Phong, khởi nghĩa chống laị triều đình. Cuộc khởi nghĩa bị bại lộ nên thất bại, cả hai thủ lĩnh đều bị bắt và xử tử. Có kẻ tố giác Văn Tổng là con Ngô Như Ngọc đang làm quan lễ khoa Đô cấp sự trung và là em Giám sát ngự sử Ngô Nhân Hải, liên quan đến cuộc khởi nghĩa của nông dân ở Kinh Bắc. Giữa triều đình, Ngô Nhân Hải  đã bình tĩnh dùng lý lẽ triết tự để bác bỏ lời cáo buộc về mối quan hệ đó, ông nói:

Xét về bản quán, Văn Tổng là hàng xóm của thần; nhưng hai người hàng xóm  không nhất thiết là cốt nhục - Tổng họ Ngô, chữ Ngô họ của Tổng được kết tự chữ khẩu ở trên, chữ thiên ở dưới. Thần cũng họ Ngô, nhưng chữ Ngô họ của thần  được kết tự chữ Ngũ ở trên, chữ khẩu ở dưới. Như vậy là đồng âm mà dị nghĩa. Ông được thoát nạn, tiếp tục  làm quan cho đến cuối đời và được vinh thăng - Đặc Tiến kim tử vinh lộc đại phu, tước Bá.

+ Ngô Nhân Trừng “trung quân ái quốc”:

Ngô Nhân Trừng tự Quế Hiện, hiệu Nhạc Sơn là cháu đích tôn của Ngô Như Ngọc, sinh năm Kỷ Hợi 1539 trong gia đình quý tộc, có truyền thống khoa bảng tiêu biểu, vẻ vang. Bản thân Ngô Nhân Trừng là người tài hoa, giỏi thi thư và binh pháp. Năm 42 tuổi đỗ Hội nguyên, thi đình Ngô Nhân Trừng đỗ Đệ nhị giáp Tiến sỹ xuất thân (Hoàng giáp), khoa Canh Thìn, niên hiệu Diên Thành 3 (1580) đời Mạc Mậu Hợp. Ông làm quan tới chức Tự Khanh, tạ thế năm Qúy Tỵ, thọ 54 tuổi. 

Truyện ký (ghi trong gia phả họ): Ngô nhân Trừng làm quan cho nhà Mạc 13 năm (1580 - 1593), được tin dùng như nội tướng - ngang hàng với các thân vương; là thành viên trong Hội đồng tham chính. Chức quan cao nhất dưới triều Mạc là Đốc đồng kiêm tư Nam Bắc; Nhị đạo trung quân, đề lĩnh tứ thành, kiêm thập tam đạo, trí mưu tiên sát hậu tấu, Thái úy sùng quốc công.

Năm 1593 ông chỉ huy quân Mạc phòng thủ Thăng Long. Trước sức tấn công  áp đảo của quân nhà Lê do Trịnh Tùng và Nguyễn Hoàng chỉ huy, quân Mạc vỡ trận thua to. Thành Thăng Long thất thủ, Mạc Mậu Hợp phải vượt sông Hồng chạy về Hải Dương. Ngô Nhân Trừng bị bât ở Lâm Tiêu. Biết ông là tướng giỏi, Trịnh Tùng Đích thân cởi trói và mời ông hợp tác với nhà Lê. Nhưng ông  khảng khái  từ chối  và trả lời Trịnh Tùng rằng:

- Phận con kiến còn có một tổ, cây cối còn có gốc rễ, tôi là tướng cầm quân, không được chết vì Vua đã là bạc phận. Nay trời bỏ nhà Mạc, tôi đã  bị bắt như cá chậu chim lồng. Nếu nguyên soái có chút nào nghĩ đến tôi, xin cho được tự xử.

Trịnh Tùng cho Ngô Nhân Trừng  được y nguyện. Ngô Nhân Trừng liền uống thuốc độc tự tử bảo toàn khí tiết trung quân. Gia quyến  đưa thi hài của ông về quê mai táng ở bãi sông Hàn Phấn, cạnh ngôi mộ thiên táng của bà nội ông là cụ Thí Thóc Chu Thị Bột.

Ngô Nhân Trừng  có 6 người con trai - một được hưởng lộc ấm tử, 4 người đỗ Cử nhân và một con (là Ngô Nhân Triệt) đỗ Tiến sỹ. Ngô Nhân Triệt, con trưởng của Ngô Nhân Trừng, tự là Mai Hiên, hiệu Đức Thịnh thông minh, có tài hùng biện, học giỏi nhưng cả 3 kỳ thi ông đều không được tham dự (vì  lý lịch, bố làm quan nhà Mạc). Mãi tới khi nhà Lê - Trịnh có chính sách cởi mở hơn, Ngô Nhân Triệt và nhiều người con cháu nhà Mạc mới được đi thi. 

Sách “Đại Việt lịch triều đăng khoa thực lục” ghi:

“Ngô Nhân Triệt xuất thân Nho sinh trúng thức; thi Hội, đỗ Hội nguyên, thi Đình đỗ đệ tam giáp đồng Tiến sỹ xuất thân (tên đứng  đầu). Khoa thi năm Đinh Mùi, niên hiệu Hoằng Định thứ 8, đời Vua Lê Kính Tông (1607). Khoa này lấy đỗ 5 người, trong đó  có Lưu Đình Chất  đỗ Tiến sỹ xuất thân, 4 đồng Tiến sỹ xuất thân; thi Hương vào tháng 8, thi Hội vào tháng 12 cùng năm). Sau ông được triều đình bổ làm quan với chức Tự khanh”.   

Ngô Nhân Triệt là tằng tôn Ngô Ngọc, cháu nội Ngô Hải, con Ngô Trừng, là cha Ngô Nhân Tuấn.

Truyện ký của gia tộc ghi:  Ngô Nhân Triệt  làm quan dưới triều Lê - Trịnh hơn 30 năm, từ năm 1607 đến năm 1638; Năm 1608 ông giữ chức Gíam sát ngự sử đạo Lạng Sơn, sau đó  về cung Vua Lê rồi năm 1620 làm Phó sứ, cùng chánh sứ Nguyễn Thế Tiêu đi sứ Trung Quốc. Do đi sứ lập được công về mặt ngoại giao, ông được phong chức Thái thường tự khanh, hàm đặc Tiến kim tư quang lộc đại phu, thái tử, thái  bảo, lễ thái bá. Khoảng năm 1630, Ngô Nhân Triệt chuyển sang làm việc ở phủ chúa Trịnh. Năm 1633 - Ngô Nhân Triệt, Nguyễn Quang Minh cùng thái bảo Trịnh Hằng được chúa Trịnh giao tổng kiểm tra và chiếu bổ các hạng quân các phủ đệ. Khi  về  hưu Ngô Nhân Triệt được tặng Hữu  thị lang bộ Lễ, tước bá.

Ngô Nhân Triệt có 9 người con trai, 1 con đỗ Tiến sỹ, 7 con đỗ cử nhân và tú tài; một con được hưởng tước ấm quan. Đây là giai đoạn cực thịnh của họ Ngô Vọng Nguyệt.

Ngô Nhân Tuấn, hay Ngô Tuấn, tên tường gọi là Ngô Nhân Duệ, tên tự là Nhân Tính, hiệu là Cương Đức, sinh năm 1595.Trước khi đi thi Nhân Tuấn đã làm quan  chỉ huy Thiêm sự. Khoa thi Canh Thìn năm 1640, ở tuổi 45 ông đỗ đồng Tiến sỹ, là thế hệ thứ 5 của Ngô lệnh tộc Vọng Nguyệt. Ông làm quan chức đô chỉ huy sứ rồi thăng bồi tụng, Lễ bộ tả thị lang phong lộc tử, về sau được được thăng Công bộ Thượng thư.  Năm 1664, ông được chúa Trịnh cử cùng với Trịnh Hoành tổ chức thi lại sinh đồ toàn quốc ở bãi sông Nhị Hà, đánh trượt quá nửa bọn con cháu nhà quan và phú hộ bất tài, được sỹ tử trong cả nước ca ngợi hết lời. Ngô Nhân Tuấn về trí sỹ năm 70 tuổi, được triều đình tặng Hộ bộ Thượng thư, tước Hầu, cấp cho lộc điền và người hầu để phục vụ dưỡng già.

Ngoài 5 vị Tiến sỹ của 5 đời trong  153 năm, tính đến  khoa thi cuối cùng thời Phong kiến ở Việt Nam vào năm 1918  triều Nguyễn, họ Ngô Vọng Nguyệt  có 58 người đỗ  cử nhân  và tú tài, trong đó  có 28  cử nhân và tú tài. Nổi bật hơn cả là cử nhân Ngô Trung Hòa, làm quan đến chức Quốc tử Giám Tư nghiệp, được  phong tước Bảo thành Hầu dưới triều Nguyễn.

Thời kỳ hiện đại, họ Ngô nói riêng, làng Vọng Nguyệt nói chung vẫn phát huy tốt truyền thống khoa bảng vẻ vang của cha ông, luôn luôn dẫn đầu toàn huyện Yên Phong về học hành, khoa cử./.

                                                                                                                                                                                                           LÊ VIẾT NGA