NHO THUẬN
Thái Thuận (1441 - 1509) có tên tự Nghĩa Hòa, hiệu Lục Khê, biệt danh là Lã Đường. Ông sinh ra trong một gia đình bình dân ở thôn Đoài, tổng Liễu Lâm, phủ Siêu Loại, thuộc thừa tuyên Kinh Bắc xưa, nay là thôn Ngọc Lâm, xã Song Liễu, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh. Ông vừa là một vị quan thanh liêm, vừa là một nhà thơ cổ điển ở thế kỷ XV và là Phó nguyên súy Tao Đàn thời vua Lê Thánh Tông.
Theo các tài liệu hiện còn lưu giữ được, khi còn nhỏ, Thái Thuận là người học rất giỏi nhưng ông chưa kịp đi thi đã phải sung lính. Trong cuộc kháng chiến chống quân Minh xâm lược, ông là một chiến sĩ tài ba - là lính dạy voi xuất sắc. Anh lính quản tượng này ngày đêm miệt mài đèn sách, “nấu sử sôi kinh” để quyết chí lo việc khoa danh. Năm 35 tuổi, Thái Thuận thi đậu Đệ tam giáp Đồng tiến sĩ khoa Ất Mùi 1475, niên hiệu Hồng Đức thứ 6 đời vua Lê Thánh Tông. Sau đó, ông được bổ chức Hàn lâm viện Hiệu lý, rồi làm Tham chính ở Hải Dương suốt hơn 20 năm. Khi làm quan, Thái Thuận nổi tiếng cương trực và thanh liêm. Vì thế, ông được triều đình thường xuyên giao cho việc đi công cán qua các vùng Thanh Hóa, Nghệ An, Quảng Bình, Quảng Trị...
Không chỉ là một vị quan thanh liêm, chính trực, Thái Thuận còn là một nhà thơ tài năng. Ông sáng tác hàng ngàn bài thơ chữ Hán nhưng không có ý định lưu truyền nên chưa soạn thành tập.
Sau khi ông mất, con trai là Thái Khác và học trò là Đỗ Chính Mô đã thu thập di cảo chỉ được vài phần, rồi viết lời tựa, đặt tên là Lã Đường di cảo. Hiện nay, chỉ còn lại 290 bài thơ được in trong tập “Lã Đường di cảo thi tập”. Sinh thời, ông là người có đạo đức, lại có tài văn chương, được người đương thời rất kính trọng. Ông đã được vua Lê Thánh Tông từng khen là thi sĩ “luôn nổi tiếng ở trường thơ”. Các danh sĩ nổi tiếng như Lê Quý Đôn, Phan Huy Chú, Ngô Thì Nhậm, Bùi Huy Bích đều xưng tụng ông là “nhà thơ có khuôn thước, có phong cách đời Vãn Đường”, là “thanh nhã, dồi dào”, “Thơ Thái Thuận phần nhiều thanh nhã có phong cách vãn Đường” (Phan Huy Chú), là “sau tập thơ Giới Hiên của Nguyễn Trung Ngạn, cũng ít khi có thể văn ấy”...
Theo sách “Đại Việt sử ký toàn thư” và sách “Việt sử thông giám cương mục”, vào tháng 11 năm Ất Mão, niên hiệu Hồng Đức thứ 26 (1495), vua Lê Thánh Tông (1460-1497) đã sáng tác 9 khúc ca, gọi là “Quỳnh uyển cửu ca”, tự soạn bài “Tựa”, xưng là Tao Đàn nguyên súy, chọn 28 văn thần ứng với 28 ngôi sao trên bầu trời, phong họ làm “nhị thập bát tú”, truyền họa lại đúng vần của 9 khúc ca. Từ đó, lịch sử văn học Việt Nam ghi danh hội thơ Tao Đàn do vua Lê Thánh Tông thành lập để vua tôi xướng họa, bình thơ, một hình thức rất mới trong hoạt động văn hóa, nghệ thuật nước nhà.Tao đàn này tồn tại trong khoảng 2 năm (1495-1497), đến khi Lê Thánh Tông mất thì cũng tự giải thể.
Khi tham gia “Tao đàn”, Thái Thuận làm chức Tao đàn Sái phu (người có nhiệm vụ sửa chữa, biên tập và cho in ấn sáng tác của các hội viên). Ông làm việc này rất nổi trội nên người đời gọi ông là Sái Thuận. Và chính vì mến phục đạo đức cũng như tài năng của Sái phu Thái Thuận nên sau khi phó soái Đỗ Nhuận mất, vua Lê Thánh Tông không giao cho Ngô Luân là người kế cận Đỗ Nhuận, mà phong cho Sái Thuận chức Phó nguyên súy Tao Đàn.
Như vậy, theo giai thoại và sử liệu nói trên thì Thái Thuận quả là một tấm gương “khổ học thành tài”. Sinh ra trong một gia đình bình dân, nhờ miệt mài đèn sách mà từ một làng quê nghèo khó, ông đã bước qua sân rồng để trở thành sĩ tử lừng danh với học vị: Đệ tam giáp Đồng tiến sĩ. Khi viết về ông, nhà bác học Lê Quý Đôn ở thế kỷ thứ XVIII đã viết: "Ông là một con người mà đạo đức văn chương một thời được tôn trọng". Vì thế, ông xứng đáng được tôn vinh là danh nhân lịch sử Kinh Bắc - một vùng quê nổi tiếng không chỉ bởi “đất đế vương” mà còn là vùng đất có “truyền thống thượng võ và hiếu học”.
Theo một số nhà nghiên cứu, thơ Thái Thuận có phong cách độc đáo, ít khi rơi vào khuôn sáo, thù tạc như thơ ca của nhiều tác giả cùng thời, nhất là những tác giả cung đình. Thơ ông ít có những nét bút hoành tráng, khí phách, tình cảm mạnh mẽ, sắc màu thắm rực như thơ Nguyễn Trãi, cũng ít có giọng khoa trương, tự đắc thường thấy trong thơ Lê Thánh Tông. Thơ ông thanh thoát, bình dị, không màu mè, hoa mỹ, tứ thơ mới mẻ, độc đáo, phóng khoáng, giàu chất hiện thực, đậm đà ý vị trữ tình...
Thơ Sái Thuận có giá trị cao về tư tưởng và nghệ thuật. Tuy cũng tham gia hội thơ Tao đàn nhưng ông đã có một quan niệm rất đúng đắn và tinh tế về thơ ca. Theo ông, thơ ca không phải là thứ văn chương chỉ để ca ngợi cái đạo thánh đế minh vương, trung thần lương bật, tô điểm cảnh lầu son gác tía, điện ngọc nhà vàng ở chốn cung đình. Thơ ca với cái nghĩa chân chính của nó, phải làm hay làm đẹp cho nước, có ích cho đời: Hoa quốc văn chương tổng thị hiền (Văn chương làm đẹp đất nước, thảy là bậc hiền tài). Trước những cảnh thái bình thịnh trị, phong đăng hòa cốc của triều đại Lê Thánh Tông, thơ ông chú ý nhiều hơn đến những đề tài có ý nghĩa nhân sinh thiết thực:
"Thái bình thiểm đáo côn bồng khách,
Nguyện hiến chu thi tụng lũ phong."
(Hỷ vũ)
(Khách thơ cảm thấy thẹn với đời thái bình,
Nguyện dâng thơ nhà Chu ca ngợi cảnh được mùa liên tiếp).
Đọc thơ Sái Thuận ta thấy một tình cảm gắn bó thắm thiết, mặn mà với quê hương, với thiên nhiên, đặc biệt là với mùa xuân tươi đẹp. Sái Thuận có nhiều bài thơ về đề tài mùa xuân. Ngày xuân thưởng thức ánh sáng xuân, ông liếc nhìn trời đất, cảm động thấy được cái thần diệu của hoá cơ (Tức sự ngày xuân). Nhìn ra thềm cỏ, ông thấy ngọn cỏ cũng đa tình. Mới chớm xuân, lòng cỏ đang lạnh giá đã chuyển mình nhen sắc (Đầu xuân). Cũng là ngắm đào liễu, Sái Thuận thưởng ngoạn vẻ đẹp riêng, quí hiếm: Liễu vẫn thả tơ biếc, lúc đầu trời còn vắng bóng chim oanh. Đào nở hoa thắm, giữ được nét nguyên trinh, khi lũ bướm ong chưa hề hay biết:
"Liễu hoàn cựu lục, oanh do tĩnh
Đào thí tân hồng, điệp vị tri."
(Sơ xuân)
(Liễu xưa nhả biếc oanh còn vắng
Đào mới khoe hồng bớm chửa hay)
Chỉ qua mấy vần thơ xuân, cũng thấy rõ thơ Sái Thuận khác xa với dòng thơ xướng hoạ cung đình thời ấy. Thơ Sái Thuận ít có những nét bút hoành tráng, khí phách hào hùng, sắc màu thắm rực, cũng ít khoa trương. Thơ ông trong trẻo, thanh thoát, bình dị, bộc lộ một tâm hồn đa cảm, đầy lòng ưu ái với tạo vật, con người. Song điều đáng nói trong thơ Sái Thuận là ở chỗ tấm lòng chân tình của ông đối với đời. Thơ ông thiên về trữ tình và theo thể tài truyền thống. Nhưng do cảm xúc chân thành, lại được viết ra từ một tâm hồn giàu cảm xúc, nên có những bài thơ đẹp như một bức hoạ:
"Nhà cỏ tuôn làn khói,
Thuyền con ghé mái bồng.
Trẻ em ba bốn tốp,
Bắt cáy dọc ven sông."
(Hoàng giang tức sự)
Cảnh vật qua thơ ông dẫu có nhỏ bé, bình thường, cũng trở nên có tình ý, có hồn, và thật giàu cảm xúc:
"Bãi phẳng triều lên ngập,
Nhà nông sớm vội cày.
Vắt trâu nghe mấy tiếng,
Cò trắng giật mình bay."
(Muộn giang)
Tuy nhiên, điều mà hậu thế tôn vinh là bên cạnh lòng tự hào dân tộc, thơ của ông còn thể hiện tình yêu với thiên nhiên, đất nước và con người. Thơ của ông cũng có nhiều bài phản ánh khí phách hào hùng của dân tộc thông qua những trang sử oanh liệt và các nhân vật anh hùng hiển hách như Thánh Gióng, Bà Trưng, Bà Triệu, chiến thắng Bạch Đằng Giang... Với những bài thơ viết về những số phận đáng thương trong đời là một minh chứng rằng ông là một nhà thơ nhân đạo chủ nghĩa đích thực. Đặc biệt, trong thơ của ông còn đề cập đến cả tình yêu lứa đôi và cả quyền bình đẳng của người phụ nữ trong xã hội phong kiến đương thời. Có thể nói đây là lần đầu tiên, đề tài này xuất hiện trong văn học Việt Nam. Và chỉ riêng với điều này, hậu thế cũng đã phải kính cẩn tôn vinh ông.
Nhưng cảm động nhất vẫn là những dòng thơ thật gan ruột, khi ông viết về quê hương, về vùng đất Cổ Châu Kinh Bắc xưa trù phú, văn vật, cổ kính:
"Nam bắc đầu kiều lộ tứ phân,
Huyên huyên thị ngữ bất kham văn.
Đạo bàng phú ốc khuân như trất,
Khê thượng danh thù mấn tự vân.
Phật tự nhật tà Trần thị tháp,
Linh từ thảo ám Sĩ Vương phần.
Cố hương thuỳ vị lâm tuyền khách,
Ngũ thập niên lai tiếu ngã vân."
(Quá Cổ Châu)
Dịch thơ:
"Đầu cầu Nam Bắc đường chia ngả,
Chợ họp ồn ào nhộn nhịp thay.
Cạnh lối nhà giàu kho sít lược,
Bờ khe gái đẹp tóc xanh mây.
Trần gia chùa tháp phơi chiều xế,
Sĩ Nhiếp đèn mồ khuất bóng cây.
Quê cũ phải đâu rừng suối lạ,
Cười ta năm chục tuổi qua đây. "
(Đào Phương Bình dịch)
Đọc thơ Sái Thuận, ta thấy bao trùm lên là một tình cảm đôn hậu, trong sáng, lành mạnh, thiết tha với quê hương, đất nước và con người. Thơ ông thực sự có những đóng góp đáng kể đối với thi đàn văn học thời đại ấy và đã góp phần quan trọng vào sự phát triển của thi ca dân tộc. Năm 1978 các tác giả Bùi Duy Tân - Đào Phương Bình dịch và giới thiệu trong sách “Sái Thuận nhà thơ lớn đất cổ Kinh Bắc”. /.