Trang chủ BÀI VIẾT THEO CHỦ ĐỀ

HOÀNG CẦM - THI SĨ NẶNG LÒNG VỚI QUÊ HƯƠNG
09:09 | 17/01/2022

Nhà thơ Hoàng Cầm, tên khai sinh là Bùi Tằng Việt, quê gốc làng Lạc Thổ nhưng sinh ra tại làng Phúc Tằng, huyện Việt Yên. Làng Lạc Thổ (tên nôm là làng Hồ) xưa thuộc tổng Đông Hồ, huyện Siêu Loại, phủ Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh. Đây là làng quê có truyền thống khoa bảng rực rỡ, với 7 tiến sĩ, vài chục cử nhân và nhiều tú tài. Họ Bùi sinh cơ lập nghiệp lâu đời ở xóm Vinh Đông của làng Lạc Thổ. Trên nền hiếu học và khoa bảng của làng, họ Bùi cũng chịu khó học hành. Đến đời cụ Bùi Văn Sắn vẫn là nhà nho, sinh ra hai người con trai là Bùi Văn Lê và Bùi Văn Nguyên. Lớn lên con trai thứ Bùi Văn Nguyên cũng theo học chữ Hán, từng lều chõng đi thi nhưng không đỗ, về nhà dạy chữ Hán và hành nghề bốc thuốc trị bệnh cứu người. Sau khi lập gia đình, cụ chuyển lên lập nghiệp bằng nghề thuốc Bắc tại Phúc Tằng, huyện Việt Yên (nay thuộc tỉnh Bắc Giang). Trong bài thơ Chân dung tự thú, nhà thơ Hoàng Cầm viết những dòng khái lược về thân phụ: Bố nho gia nghẽn rách/ Mê Châu Trinh, Sào Nam/ Đi thi là phá cách/ Thành lang đồ lang thang. Cụ Bùi Văn Nguyên sinh con trai tại đây, đặt tên con là Bùi Tằng Việt để ghi nhớ địa danh nơi sinh con. Hiện nay, tại xóm Vinh Đông (Lạc Thổ Nam, Thị trấn Hồ, Thuận Thành, Bắc Ninh) trên mảnh đất xưa của tổ tiên họ Bùi vẫn còn nhà thờ do cháu trưởng Bùi Minh Tuấn trông nom hương khói.

Nhà thơ Hoàng Cầm sinh ngày 22 tháng 2 năm 1922. Ông học Tiểu học và Trung học ở Bắc Giang và Bắc Ninh. Năm 1938, ông ra Hà Nội học trường Thăng Long. Năm 1940, ông đỗ Tú tài toàn phần. Sau đó nhận dịch sách cho Tân Dân xã của Vũ Đình Long. Mới 15 tuổi ông đã bước vào thi đàn với tác phẩm Hận ngày xanh, rồi Bông sen trắng làm ngạc nhiên văn đàn cả nước, đến lúc này ông càng sáng tác nhiều với bút danh Hoàng Cầm. Hoàng Cầm là tên vị thuốc đắng nhưng theo ông giải thích, ông yêu gỗ cây đan hoàng làm đàn rất đẹp mà lấy bút danh này. Sự nghiệp thi ca của Hoàng Cầm càng bùng phát mạnh mẽ khi hoạt động cách mạng. Năm 1948, khi 26 tuổi, Hoàng Cầm viết Bên kia sông Đuống với tình cảm yêu quê hương cháy bỏng, tinh thần lạc quan cách mạng lớn lao đã đưa Hoàng Cầm lên hàng thi sĩ tiêu biểu nhất trong kháng chiến chống Pháp.

Năm 1944, quân Nhật đánh chiếm Đông Nam Á, chiến tranh thế giới thứ 2 đang căng thẳng, Hoàng Cầm đưa gia đình về quê gốc ở làng Lạc Thổ sinh sống. Làng Lạc Thổ lúc này là trung tâm phong trào cách mạng ở huyện Thuận Thành. Nơi đây sớm có tổ chức cách mạng do đồng chí Vương Văn Trà giác ngộ, tổ chức và lãnh đạo. Ông bắt đầu tham gia hoạt động Thanh niên Cứu quốc của Việt Minh, trở thành Bí thư Chi đoàn Thanh niên Cứu quốc xã Lạc Thổ từ tháng 4/1944 đến 30/8/1945, tham gia những ngày sôi sục Tổng khởi nghĩa. Cách mạng tháng Tám thành công, ông về Hà Nội thành lập Đoàn kịch Đông Phương. Khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp bùng nổ, ông theo đoàn kịch rút ra khỏi Hà Nội, biểu diễn lưu động ở vùng Bắc Ninh, Bắc Giang, Sơn Tây, Thái Bình một thời gian nữa rồi giải thể. 

Tháng 8 năm 1947, nhà thơ Hoàng Cầm tham gia Vệ quốc quân ở Khu 12. Cuối năm đó ông thành lập và phụ trách Đội văn nghệ tuyên truyền Khu 12, sau trở thành Đoàn văn công Tổng cục Chính trị (năm 1952), ông vẫn được cử làm Trưởng đoàn, hoạt động biểu diễn cho quân dân vùng tự do và phục vụ các chiến dịch. Hoàng Cầm là người khai sinh nghệ thuật ngâm thơ. Bản thân ông cũng có giọng ngâm đặc biệt ấm áp và truyền cảm, được thính giả tôn là “Giọng oanh vàng đất Bắc”. Theo yêu cầu của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, bài thơ Hoan hô chiến sĩ Điện Biên của Tố Hữu được Hoàng Cầm trình bày trong Lễ liên hoan mừng chiến thắng có trên 1.200 người từ Tiểu đoàn trưởng trở lên được mời dự. Đích thân Đại tướng Võ Nguyên Giáp và Đại tướng Nguyễn Chí Thanh chủ trì. Đó là “Giờ cất cánh cho thơ. Một trận sấm vỗ tay nổi lên như vũ bão kéo dài bao lâu tôi không nhớ nữa” (Hồi kí Hoàng Cầm). Hạnh phúc của tác giả, hạnh phúc của nghệ sĩ trình bày gặp hạnh phúc của cả dân tộc trong những ngày núi sông bừng lên.

Tháng 10 năm 1954, đoàn văn công về Hà Nội. Đầu năm 1955, do đoàn văn công mở rộng thêm nhiều bộ môn, Hoàng Cầm được giao nhiệm vụ Trưởng đoàn kịch nói. Cuối năm 1955, ông về công tác ở Hội Văn nghệ Việt Nam, làm công tác xuất bản. Tháng 4 năm 1957, ông tham gia thành lập Hội Nhà văn Việt Nam và được bầu vào Ban chấp hành. Ít lâu sau, Hoàng Cầm xin rút khỏi các chức vụ và nghỉ hưu năm 1970.

Hoàng Cầm sáng tác và thành công sớm trên 3 lĩnh vực: Văn xuôi, Kịch và Thơ. Ông đã cho ra đời nhiều đầu sách, tiêu biểu: 

Về văn xuôi: Hận ngày xanh (1941) sáng tác dựa theo Lamáctin, Bông sen trắng (1941) sáng tác dựa theo "Truyện cổ Anđécxen", Cây đèn thần (1941) dựa theo "Nghìn lẻ một đêm", Hai lần chết tập truyện ngắn sáng tác năm 1941, Tỉnh giấc mơ Vua (1942) dựa theo "Nghìn lẻ một đêm", Văn xuôi Hoàng Cầm (1997).

Kịch thơ: Hận Nam Quan (1944), Kiều Loan (1945), Viễn khách (1952), Lên đường (1952), Trương Chi (1983).

Kịch nói: Ông cụ Liên (1952), Lào Cai (1957), Tương lai (1996).

Thơ: Tiếng hát Quan họ (1956), Mưa Thuận Thành (1987), Bên kia sông Đuống (1970, 1993), Lá Diêu Bông (1993), Về Kinh Bắc (1959, 1994), Men đá vàng (truyện thơ 1973, 1983), 99 tình khúc (1995), Đến từ hư không (2000). 

Tuy nhiên, thành công chính của Hoàng Cầm là trên lĩnh vực thơ. Với thi phẩm Bên kia sông Đuống, ông đã là thi sĩ tiêu biểu nhất trong kháng chiến chống Pháp. Bài thơ đã được đưa vào chương trình giảng dạy văn học bậc Trung học phổ thông, được phổ nhạc và trình diễn với nhiều hình thức thể hiện khác nhau. Hoàng Cầm còn có nhiều thi phẩm nổi tiếng khác như: Lá Diêu bông, Cây Tam Cúc, Mưa Thuận Thành, Về Kinh Bắc…

Nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo thì tôn Hoàng Cầm là “ông hoàng thơ tình”. Lại có những người mê thơ Hoàng Cầm viết về mẹ, về chị, về tình yêu thì tôn ông là “Thi sĩ theo dòng mẫu hệ”.

Nhà văn Phạm Thị Hoài nhận định: “Hoàng Cầm quả thật là một trong số không nhiều lắm những người lập được cho mình một vương quốc thơ riêng, với nền móng, bản sắc và các nghi thức không thể trộn lẫn”. 

Nhạc sĩ Phạm Duy - người bạn thân một thời và đã phổ nhạc Lá Diêu bông, Nếu anh còn trẻ của Hoàng Cầm đánh giá: “Hoàng Cầm xứng đáng là nhà thơ lớn nhất của thời đại chúng ta. Tôi yêu nước mình vì đọc thơ Hoàng Cầm”.

Nhà nước ta cũng ghi nhận những đóng góp to lớn của nhà thơ Hoàng Cầm qua việc tặng thưởng “Giải thưởng nhà nước về Văn học nghệ thuật” năm 2007 cho các tác phẩm Bên kia sông Đuống và Lá Diêu bông.

Mặc dù sinh ra ở nơi khác, sống ở chốn quê tổ không lâu, nhưng quê hương Lạc Thổ, Thuận Thành vẫn luôn in dấu sâu đậm trong con người và thơ Hoàng Cầm. Đang ở chiến khu 12, nghe tin giặc Pháp càn quét chiếm đóng Thuận Thành, Hoàng Cầm vừa khóc vừa bật ra kiệt tác Bên kia sông Đuống. Những câu thơ sáng mãi với thời gian: “Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong/ Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp”. Bên kia sông Đuống đã làm Hoàng Cầm hiểu ra một điều quan trọng: Quê hương Kinh Bắc chính là điều kỳ diệu nhất tạo hóa ban tặng ông, là “thiên mệnh” thơ của đời ông. Văn hóa Kinh Bắc như một cánh diều bay trên bầu trời thổi lên tiếng sáo nhớ nhung mà thi sĩ là người cầm dây. 

Nhà thơ Hữu Thỉnh, Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam khẳng định: Thi nhân Mưa Thuận Thành là nhà thơ “Độc đáo mà tự nhiên, là mình mà cũng là tất cả”. Hữu Thỉnh cho rằng, sinh ra ở Bắc Ninh dường như là một “biệt đãi của số phận” dành cho Hoàng Cầm, bởi: “Để làm một thi nhân, không còn mong ước gì hơn là được sinh ra, tại một vùng quê phong tình vào bậc nhất của đất Bắc, được bồi đắp cái năng lượng sống tối đa đủ tươi tốt cho cả đời người”. Và Hoàng Cầm, với ý thức rằng ông chính là “Khí thiêng sông núi nhập/ Duyên nghiệp thầm dư ba/ Nghĩa tình quê vun đắp/ Thấu dạ nghén tài hoa”, có lẽ, cũng đã trả hết ân tình cho đời, bằng sự nghiệp thơ độc đáo, tài hoa. Ông, cũng chính là một “biệt đãi” mà số phận đã trao cho văn hóa Kinh Bắc, cho thi ca Việt Nam. 

Năm 2003 tỉnh Bắc Ninh tổ chức Ngày thơ Việt Nam lần đầu tiên ở Nhà hát Dân ca Quan họ, nhà thơ Hoàng Cầm về dự. Dù đã ngoài 80 tuổi nhưng thi sĩ vẫn cất “giọng oanh vàng” đọc thơ Bên kia sông Đuống đầy mê hoặc, quyến rũ. 

Quê hương hội hè, đình đám, chùa chiền, hát hội hun đúc, nâng đỡ nhà thơ nhưng ông ít có dịp về dự. Hội làng Hồ cũng rất độc đáo với tục thi gà Hồ, thi đấu cờ tướng, thi tổ tôm điếm… Có lần nhà thơ Hoàng Cầm về dự hội làng và có thơ lưu lại. Quê hương cũng trân trọng tất cả thi phẩm Hoàng Cầm. Ông tự hào về quê hương, nâng cao giá trị văn hóa quê hương và quê hương cũng tự hào có một thi nhân đóng góp nhiều cho sự nghiệp cách mạng, cho nền thi ca Việt Nam.                                                                                         

Ngày 6/5/2010, nhà thơ Hoàng Cầm đã nhẹ bước ra đi sau chặng đường 89 năm bền bỉ tìm về. Tiến tới kỉ niệm 100 năm ngày sinh nhà thơ Hoàng Cầm, UBND tỉnh Bắc Ninh đã phê duyệt chương trình đêm thơ nhạc Hoàng Cầm tại thành phố Bắc Ninh. UBND huyện Thuận Thành cũng đã phê duyệt chương trình hội nghị tọa đàm kỉ niệm Hoàng Cầm và có phương án đặt tên phố Hoàng Cầm tại đô thị Thuận Thành. Gia đình nhà thơ Hoàng Cầm có chủ ý kỉ niệm 100 năm ngày sinh nhà thơ Hoàng Cầm với nhiều hoạt động khác nhau như in sách, làm phim, trình diễn thơ, nhạc Hoàng Cầm… 

Chúng ta đang bên cạnh dòng sông Đuống để hướng về tiếng gọi của nhà thơ:   

Em ơi buồn làm chi/ Anh đưa em về sông Đuống/ Ngày xưa cát trắng phẳng lì...

                                                                                                                                                                                PHẠM THUẬN THÀNH