Hướng tới kỷ niệm 20 năm tái lập tỉnh và 185 năm thành lập tỉnh Bắc Ninh
VĂN HÓA DÂN GIAN KINH BẮC - BẮC NINH NHỮNG GÌ CÒN CẦN TIẾP TỤC
GS TSKH Tô Ngọc Thanh
Tôi là một người Hà Nội, nhưng lại được phân công nghiên cứu về văn hóa các tộc người thiểu số và đã sống ở vùng đồng bào hơn bốn chục năm nên hiểu biết rất kém về văn hóa đồng bằng. Vì thế, trong hội thảo này, tôi chỉ xin phép phát biểu vài ý tưởng mang tính chất nghề nghiệp của công tác sưu tầm nghiên cứu văn hóa dân gian.
Một - Kinh nghiệm lịch sử cho thấy, trong các nước nông nghiệp mà cư dân đại đa số là nông dân thì văn hóa dân gian thường đóng vai trò chủ chốt trong nền văn hóa dân tộc. Khi ấy, văn hóa dân gian hình thành, tồn tại phổ biến trong những đơn vị xã hội mang tính chất một công xã xóm làng với tên gọi khác nhau như làng, thôn, bản, buôn, pờ lây, sóc (sau đây gọi chung là “làng”)…Văn hóa dân gian trong các làng của cùng một tộc người thường có những nét cơ bản chung, nhưng cũng lại có khá nhiều nét riêng, đặc thù. Nên đã có câu “Trống làng nào, làng ấy đánh. Thánh làng nào làng ấy thờ”. Vậy có thể nói văn hóa dân gian các làng đó là “thống nhất trong đa dạng”. Đặc trưng này cũng là nét chung của văn hóa của cả 54 tộc người Việt Nam.
Khi ấy, văn hóa dân gian được tổ chức thành những hoạt động phong tục hay văn hóa nghệ thuật theo những chủ đề cụ thể. Có thể gom những hoạt động trong những hệ thống có chung một chức năng. Đó là:
“Hệ thống các hoạt động thứ nhất đánh dấu những chặng đường đời một thành viên công xã từ khi sinh ra đến khi chết, từ lễ ra cữ, qua hát ru, chơi đồng dao, hát giao duyên đối đáp, hôn nhân và cưới xin, dựng nhà mới, ốm đau và chữa bệnh và cuối cùng là tang ma”;
“Hệ thống hoạt động thứ hai đánh dấu các chặng sinh trưởng của lúa, thứ cây trồng chủ yếu của nông nghiệp Việt Nam, từ lễ xuống đồng sau cơn mưa sấm ra, đến hội cấy, đến lễ cầu an cho lúa, đến cầu mưa nếu cần và đặc biệt là lễ ăn cốm vào tiết trung thu và mùa gặt lễ cơm mới”;
“Hệ thống thứ ba đánh dấu các hoạt động tiếp xúc với thần linh và các lực lượng thiên nhiên đã được siêu nhiên hóa, trong đó quan trọng nhất là tế lễ thành hoàng làng – vị thần che chở, bảo vệ cuộc sống được người yên – vật thịnh. Sau đó là đến tổ tiên các dòng họ, đến các tín ngưỡng riêng”
Ba hệ thống các hoạt động văn hóa nói trên làm nên diện mạo của nền văn hóa tự cấp-tự túc trong các công xã xóm làng của phần lớn các tộc người Việt Nam.
Hai - Tuy nhiên, trên cái biển mênh mông của công xã xóm làng, do yêu cầu phát triển của lịch sử, đã xuất hiện những trung tâm của từng vùng, hay của cả quốc gia - những trung tâm mang tính chất đô thị, thậm chí từ những thời kỳ rất sớm của lịch sử dân tộc mà Luy Lâu-Kinh Bắc là một minh chứng. Với chức năng địa lý - lịch sử - văn hóa của một trung tâm, Luy Lâu đã là hạt nhân hội tụ và cũng là nơi chọn lọc, tinh chế trên cơ sở giao lưu, tiếp biến với các nguồn văn hóa khác nhau để có một văn hóa Việt của thời đại, từ đó lan tỏa ra khắp các nơi chốn của đất Việt.Vào thời đại hoàng kim của mình, Luy Lâu đã là biểu tượng tích hợp của cả văn hóa, văn minh, văn hiến văn vật và khơi nguồn cho dòng chảy bất tận của văn hóa Việt cho đến tận ngày nay.
Ba – Đi vào cụ thể, văn hóa Luy Lâu nói riêng và Kinh Bắc nói chung có những hiện tượng văn hóa thể hiện tính cởi mở về văn hóa của người Việt; đồng thời cho thấy tài năng sáng tạo trong việc dân tộc hóa những yếu tố ngoại nhập như trường hợp vừa tôn vinh, “vừa dân dã hóa”các vị thần mưa trở thành những Phật pháp. Hoặc như trường hợp của tục “bầu hậu”- một nét đẹp mang tính nhân văn thông qua việc ghi nhớ sự đóng góp của từng thành viên công xã sau khi họ đã qua đời.
Nhân đây tôi còn muốn nói đến tài năng nghệ thuật của người Kinh Bắc thể hiện trong Quan Họ. Mọi người đều biết, Quan Họ được xếp vào loại hình Giao duyên thông qua hát đối đáp nam nữ như Hát Ví, Trống quân vv. Các lối hát giao duyên khác thường chỉ có một làn điệu âm nhạc duy nhất để hát lên hàng vạn lời ca khác nhau thực hiện việc “đối và đáp”.Riêng có Quan Họ là ngoài lời đối còn phải đối bằng cả làn điệu, thậm chí bằng cả một ca khúc được sáng tác tức thời, tại chỗ. Ở nước ta, ngoài Quan Họ, tôi chỉ thấy ở Hát Ghẹo Phú Thọ có cách hát đối này.Tôi đã có cơ hội đi đến hơn ba chục nước trên thế giới, trong đó có những nước mà cư dân còn lưu giữ được nhiều hoạt động văn hóa cổ xưa ở châu Phi, châu Á, châu Mỹ La tinh, nhưng không nơi nào có được lối hát đối giọng như Quan Họ.
Trên đây tôi đã mạo muội trình bày cảm nhận thô thiển của mình về văn hóa của một vùng “địa linh nhân kiệt” với mục đích góp thêm tiếng nói nhỏ bé vào việc tiếp tục nhận diện chiều sâu của văn hóa Kinh Bắc – Luy Lâu, không chỉ với tầm vóc của nó trong đương thời mà cả trong chiều dài lịch sử cho đến hôm nay và cả mai sau.
Tôi cũng muốn mạnh dạn đề nghị quý vị lãnh đạo và các đồng nghiệp tiếp tục sưu tầm nghiên cứu những gì còn tiếp cận được. Tôi trộm nghĩ, đó là việc thế hệ chúng ta phải làm để con cháu không phải làm, bởi vì đến đời chúng thì có lẽ chúng chẳng còn gì để làm.
Về những gì cần phải tiếp tục làm, nếu tỉnh có nhu cầu, anh em chúng tôi ở Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam luôn sẵn sàng.
Trân trọng cảm ơn quý vị!