Nguyễn Xuân Tường
Buổi sáng ngày 20-7- 1960, vào lúc phiên chợ Nội Doi (hạ tuần tháng 6 âm lịch) mới lác đác có người lên đê gánh bộ đi về phía hạ lưu thì xuất hiện một chiếc xe hơi màu vàng chanh chầm chậm đến quãng kè gần điếm canh làng Thống Thượng, dừng bánh; phía sau cách chừng đôi chục mét một chiếc xe hơi và xe máy khác cũng dừng lại theo. Tự mở cửa ra khỏi chiếc xe đi trước là một ông già mặc bộ quần áo lụa màu gụ rộng ống, đầu đội chiếc mũ cát bọc vải ka ki màu hồng, chân đi đôi dép cao su đen, quai to. Chòm râu bạc, nét mặt hiền hậu, dáng nhanh nhẹn, ông già đi thẳng tới điếm canh. Mấy cán bộ trẻ nam giới rảo bước theo sau.
Dưới đồng, ven đê một cậu thiếu niên khoảng chục tuổi đầu có tên cúng cơm là Nguyễn Nên đang đi bắt cua thấy xe hơi dừng bánh, vội đặt giỏ xuống rủ anh Sàng đang ngồi chăn bò chạy lên mặt đê cho thỏa tính hiếu kỳ. Ở nhà quê thời điểm này hiện tượng xe cộ qua đê làng, đỗ lại còn hiếm và lạ lắm. Bên kia mặt đê, ngồi trên rệ cỏ ngoảnh mặt về lòng sông là một dân quân đang chăm chú vót nan tre, chỗ nan to bản đã có thể đủ đan một cặp xảo.
Trong Điếm canh tuềnh toàng đôi quang xảo, hai chiếc đòn gánh và hai chiếc mai, cuốc cán dựng chồng chéo lên nhau; phía trên, sợi dây chão treo một chiếc trống làng đã bục một mặt.
Bầu trời nhiều mây, thượng nguồn sau những trận mưalớn đang dồn nước lũ về dâng lưng thân đê sông Cầu. Tuy chưa phải con nước cường hung dữ nhưng quãng đê phải kè này năm nào cũng ẩn chứa nguy cơ; năm nay nước vừa sớm vừa to hơn, không thể coi thường, lơ là canh giữ.
Ông già quay về phía hai chiếc xe đi theo đỗ không xa, nói người cán bộ bên cạnh vẫy tay bảo họ quay đầu xe lùi xa. Ông đến gần người đan xảo, vẫn thấy căm cụi vót nan bèn lên tiếng:
- Chào chú! Nước sông dâng như thế này đã lâu chưa, làng mình có cử ai ra điếm canh đề phòng sự cố không?
Người đan xảo có tên gọi là Ngâm (Ngâm Vịnh) được người lạ quan tâm hỏi đến thì ngẩng đầu: Dạ! chào cụ! từ chiều hôm trước nước lên nhanh, Hợp tác làng cháu có cử dân quân hộ đê túc trực, may mà nước bắt đầu đứng, rút chậm rồi. Hôm nay cũng có hai người trực, cháu và một anh nữa; anh ấy tranh thủ đi chợ mua cái giậm về kiếm con cua con cá cụ ạ.
Nghe dứt lời ông già đi lại quan sát cả khu vực kè rồi ngồi xuống một hòn đá bên thủy lợi tập kết sẵn ở sườn đê (chỗ xung yếu), chỉ vào một cây sào cắm dưới nước hỏi tiếp:
- Vậy chứ cái cây tre cắm chỗ dưới nước kia là để làm gì?
- Dạ, thưa cụ, đấy là chỗ xung yếu nhất, nếu dưới ngầm đê bị lở cái cọc tiêu ấy sẽ nghiêng ngả, sẽ phải tập trung xử lý ngay ạ?
Ông già gật đầu khen:
- Các chú sáng dạ, thông minh đấy, cần phổ biến cho các làng ven đê khác học tập theo.
Ông già đứng dậy kéo ống quần lên cao rồi đi xuống sát mép nước sông, di chân vào một mạch sủi đã được dân làng đánh dấu, nói:
Những chỗ dò thấm qua thân đê như thế này người canh đê phải thật chú ý kiểm tra phát hiện sớm, đề phòng, kịp thời báo cáo, khi nước lên to sẽ rất nguy hiểm.
Lên mặt đê nhìn xuống phía rìa làng thấy một phụ nữ đang gánh nước từ một cái ao nước đã ngập bờ, vài ba con vịt đang dập dềnh, trỏ tay ông già, hỏi:
- Nước gánh từ đồng về làm gì vậy?
- Nước đem về để nấu ăn đấy ạ
Bấy giờ mưa xuống nước dâng ngập cả giếng đất, vịt ngan thả không bị bờ cao ngăn, thành thử mới có chuyện nước sinh hoạt chung chạ với cả gia cầm như thế.
“Làng cần khắc phục, giữ vệ sinh, dùng phèn chua, sống lá chuối khuấy lấy nước lắng, lọc để ăn uống mới đảm bảo sức khỏe chống trọi với thiên tai bão lụt”. Ông già nhìn về phía điếm hỏi tiếp: Vậy chứ còn cái trống bị bục một mặt ấy đã lâu chưa, sao mùa này cần nó dùng thúc trống báo nguy cấp lại vẫn để vậy ?
“Dạ, bục từ dạo hội làng đầu xuân, hợp tác xã định bọc lại nhưng chắc phải đợi vụ tháng mười này mới có tiền ...”
Đồng tiền khó khăn với cả một tập thể hợp tác xã nông nghiệp như vậy, với người dân thì chắc cũng không rộng rãi gì hơn. Một bà già đi chợ về trên vai toòng teng quang gánh, một bên là chiếc nơm úp cá, bên kia là mớ tép, có con còn nhảy lách tách. Chào bà già, ông già hỏi giá cả cái nơm ấy bao nhiêu:
- Dạ thưa cụ! năm đồng đấy cụ ạ… Vâng, là em cũng thấy đắt như cụ nói. Đắt chút, em mua về úp đàn gà mới nở, chống được cả chuột rắn, chứ cái lồng bu thường có rẻ hơn nhưng lại không an toàn cho gà con cụ ạ.
- Cụ tính thế là phải, dân ta lúc này còn khó khăn, đắt nhưng phải thực chắc bền. Thôi! chào cụ, chúng tôi đi nhé.
Ông già lên xe được một đoạn dân làng Thống mới theo nhau lên mặt đê ồn ã bàn tán:
Đích thị ông già đó là Bác Hồ rồi. Cao tuổi mà đi lo việc cho dân nước sâu sát như thế, trông lại như ông tiên ông bụt vậv thì chắc chắn đó phải là Bác Hồ. Và dẫu biết Bác đã đi xa rồi nhưng các cán bộ thôn, xã ai cũng nhất định phải chạy tới điếm canh hỏi lại anh Ngâm, anh Lễ, là bao lần anh Lễ chỉ sang anh Ngâm phân tỏ: Tôi chỉ tranh thủ đi chợ Nội mua cái giậm một lúc, nếu không sẽ sung sướng biết chừng nào. Còn anh Ngâm sau lúc được nói chuyện với Bác Hồ mà không hề biết thì cứ như người đang đi trên mây. Mọi người đùa vui hỏi:
- Giả thử biết đó là Bác Hồ thì hai dân quân Thống Thượng hôm đó sẽ làm gì?
Hai dân quân cùng đỏ tai lúng túng, rồi cùng phấn khích, nói:
- Chúng tôi sẽ hô vang: "Hồ chủ tịch muôn năm, Bác Hồ muôn năm"; Chúng mình sẽ cảm ơn Bác đã đến tận thôn Thống chúng ta, sẽ hứa với Bác sẽ làm tốt điều Bác dặn và quan trọng là sẽ chúc Bác luôn mạnh khỏe để lãnh đạo đất nước tiến lên xã hội chủ nghĩa.
Đúng, như thế mới đúng là thanh niên thời đại Hồ Chí Minh, mới đúng là người làng Thống. Chỉ có bà già mua nơm úp cá thay lồng bu gà và cậu bé Nguyễn Tiến Nên bắt cua được lại gần Bác là vô tư khoe khắp làng. Nên còn được nhà nhiếp ảnh đi theo Bác chụp ảnh đưa lên báo. Cũng chỉ có một anh Sàng bị nhiều người tiếc thay sao không chạy theo Nên. Dễ gì người làng Thống được thấy Bác bên quãng đê kè ấy một lần nữa.
Hơn 50 năm sau, vật đổi sao dời, khi mặt đê sông Cầu đã được tôn cao, bê tông hóa, người duy nhất còn lại của làng Thống được đứng gần Bác, thường xuyên qua lại khu vực kè trong độ tuổi 65 là ông Nguyễn Tiến Nên. Ông bày tỏ với chi hội CCB của làng ý tưởng tạo dựng đài tưởng niệm ngày Bác về đây. Hòn đá và vị trí Bác ngồi nơi quãng kè vẫn được dân làng lưu giữ trong tâm khảm. Điếm canh đê đã rời đi địa điểm khác từ lâu nhưng nền cũ chỗ Bác Hồ đứng thì vẫn in trong tâm thức mọi người.
Ông Nên xin được ủng hộ số tiền để xây hai bệ, đặt 4 tấm bia ghi nội dung năm tháng và vị trí vật chứng lưu lại sự việc sâu sát mà bình dị của vị chủ tịch nước gần dân, hết lòng vì dân như Bác. Những tấm bia tuy về mặt nội dung và hình thức đang còn nhiều mong đợi bổ sung nhưng nó thật chân chất và thắm đượm sự tri ân thủy chung sâu đậm, đã góp phần thiết thực vun đắp tình yêu quê hương cho các thế hệ, còn mãi nói cùng thôn Thống Thượng và dòng sông Cầu: Không thế lực nào, không gì có thể làm mờ phai tình Bác đối với dân và lòng dân với Bác./.